BÙI ĐỨC HIỂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Μέγεθος: px
Εμφάνιση ξεκινά από τη σελίδα:

Download "BÙI ĐỨC HIỂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC"

Transcript

1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHẢM BÙI ĐỨC HIỂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị HÀ NỘI, 2016

2 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHẢM BÙI ĐỨC HIỂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị HÀ NỘI, 2016

3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án đảm bảo tính chính xác, nghiêm túc, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Tác giả luận án Bùi Đức Hiển

4 LỜI CẢM ƠN Tác giả luận án xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS. Phạm Hữu Nghị. Thầy đã luôn hướng dẫn, giúp đỡ tác giả tận tình suốt quá trình nghiên cứu để tác giả có thể hoàn thành được công trình nghiên cứu của mình.

5 MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Lý luận về môi trường không khí và ô nhiễm môi trường không khí Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong các công ước quốc tế 54 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Thực trạng pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí và tiêu chuẩn môi trường không khí Thực trạng các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí Thực trạng các quy định về phát hiện ô nhiễm môi trường không khí Thực trạng các quy định về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm môi trường không khí Thực trạng quy định về xử lý hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam hiện nay Quan điểm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Không khí là một thành phần quan trọng cấu thành môi trường tự nhiên trái đất, cung cấp điều kiện thiết yếu đảm bảo sự hình thành, tồn tại, phát triển của con người và các sinh vật. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, bên cạnh những thành tựu, nhân loại cũng đã và đang đối mặt với nhiều mặt trái, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí gây biến đổi khí hậu và suy giảm tầng ozon, đe dọa cuộc sống của con người cũng như sinh vật trên thế giới [58]. Ở Việt Nam, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa đến nay, nhiều nhà máy, xí nghiệp được thành lập đi vào sản xuất ở khắp các tỉnh, thành, nhưng sự phát triển thiếu quy hoạch trong thời gian dài dẫn đến ô nhiễm không khí cũng ngày càng nghiêm trọng. Trong một nghiên cứu thường niên về môi trường do các trường Đại học của Mỹ thực hiện và công bố tại Diễn đàn kinh tế thế giởi ở Davos, Thụy Sĩ thì Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất thế giới [85], điển hình là ở các đô thị lớn như: Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp và làng nghề, làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân, tác động tiêu cực đến mùa màng, quần thể động, thực vật, các công trình xây dựng, thậm chí gâybiến đổi khí hậu... Cụ thể tại Tp. Hồ Chí Minh, theo thống kê nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn 10μ tăng 1,07 lần). Tại Hà Nội theo dự đoán nếu không có biện pháp nào, nồng độ phát thải bụi có thể đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới [125]. Thực tiễn này đặt ra vấn đề là phải hoàn thiện các cơ chế nhằm kiểm soát ô nhiễm không khí có hiệu quả, bảo vệ môi trường, trong đó có việc hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này. Vấn đề đặt ra, quy định và thực thi pháp luật, trong đó có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí như thế nào để vừa giữ gìn được một môi trường không khí sạch, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân đồng thời vẫn có các điều kiện phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước là vấn đề hết sức quan trọng. Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm không khí trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có thể thấy Luật quy định còn khá chung chung, nhiều thiếu sót, chưa mang tính hệ thống, thiếu minh bạch, thiếu cụ thể dẫn tới khó khả thi. Ví dụ: về nội hàm kiểm soát ô nhiễm không khí chưa được làm rõ, quy định về đánh giá tác động môi trường không khí còn thiếu sót dẫn tới nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh vẫn có thể lách qua các quy định pháp luật để không phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; thiếu các quy định về phí bảo vệ môi trường với khí thải, về 1

7 xác định thiệt hại môi trường không khí, Bên cạnh đó, quy định về quy chuẩn môi trường không khí hiện nay đã lạc hậu so với khu vực và thế giới; chưa có quy định cụ thể về quy chuẩn môi trường không khí trong nhà. Những điểm thiếu sót hạn chế trong các quy định pháp luật đã gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân trong kiểm soát ô nhiễm không khí. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia vào các sân chơi chung của khu vực và thế giới như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Liên minh thuế quan Nga, Kazakhstan, Belarusia, Việc tham gia vào các sân chơi chung này đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước phù hợp với luật chơi chung của thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường không khí, ứng phó với biến đổi khí hậu, như: Công ước khung về ứng phó với biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc, Nghị định thư Kyoto về ứng phó với biến đổi khí hậu, Công ước về bảo vệ tầng ozon,... Bởi vậy, nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí là một đòi hỏi cấp thiết. Mặt khác, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân nộp thuế để nuôi Nhà nước. Nhà nước có rất nhiều trách nhiệm trong đó có việc phải kiểm soát các mặt trái của kinh tế thị trường (phát triển lệch lạc), trong cái lệch lạc đó là việc ngăn chặn các hành vi làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí là rất quan trọng. Nhà nước phải đảm bảo môi trường sống trong lành an toàn, lành mạnh nhằm đảm bảo quyền lợi về tự nhiên của con người, và để thực hiện được điều này, Nhà nước phải sử dụng pháp luật. Ngoài ra, qua tổng quan các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản liên quan trực tiếp đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí. Do vậy, tác giả lựa chọn chủ đề Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam là đề tài nghiên cứu sinh của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu sau: 2

8 - Phân tích nhận thức lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí: khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò; mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chủ thể kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, đối tượng kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, công cụ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nội dung kiểm soát ô nhiệm môi trường không khí; tiêu chí của điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm mô trường không khí; - Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam và chỉ ra các thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó; - Phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay; - Kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam trong điều kiện mới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Về đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án chủ yếu là các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được ghi nhận trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan khác. Bên cạnh đó, tác giả cũng có sự quan tâm thích đáng đến việc nghiên cứu các quan điểm, lý thuyết khoa học về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng cũng như một số các quy định pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. - Về phạm vi nghiên cứu của đề tài, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn xoanh quanh pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Không gian nghiên cứu của đề tài luận án là Việt Nam và thời gian nghiên cứu ở thời điểm hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu để có những đánh giá mang tính toàn diện về chủ đề nghiên cứu, nghiên cứu sinh sẽ có sự quan tâm thích đáng đến pháp luật của một số nước trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng như các cam kết khu vực, quốc tế liên quan đến vấn đề này. Bên cạnh đó, luận án cũng nghiên cứu về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong mối quan hệ với ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu. Bởi nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu là do việc xả thải quá nhiều chất ô nhiễm, như CO2, CFCs, vào bầu khí quyền trái đất gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu toàn cầu và ứng phó với biến đổi khí hậu góp phần vào kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, luận án này sẽ không đi quá sâu vào phân tích thực trạng pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, mà ứng phó với biến đổi chỉ là một trong các nội dung quan trọng của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. 3

9 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Luận án cũng dựa trên những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Luật Môi trường, Lịch sử Nhà nước và pháp luật, Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Xã hội học pháp luật, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Dân sự,... Những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành liên quan đến kiểm soát ô nhiễm không khí, pháp luật kiểm soát ô nhiễm không khí. Các phương pháp được sử dụng trong luận án là: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch, Đồng thời luận án còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Cục Môi trường và các địa phương cũng như những thông tin trên mạng Internet,... Cụ thể: - Phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng trong nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa hành vi xả thải các chất thải của các cá nhân, tổ chức với ô nhiễm môi trường không khí; mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường không khí và biến đổi khí hậu và nhu cầu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật; - Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng khi đánh giá, bình luận các quan điểm, các quy định pháp luật, các tình huống thực tiễn làm cơ sở cho những kết luận khoa học về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm đưa ra được khung pháp luật hoàn thiện về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp nghiên cứu này sẽ được tác giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. - Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phương pháp so sánh, tổng hợp nhằm xác định rõ những kết quả đã nghiên cứu được liên quan đến đề tài để kế thừa, đồng thời chỉ ra những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển. - Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phỏng vấn chuyên gia, các nhà quản lý để đánh giá các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nguồn gốc ra đời của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, so sánh để phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường với quản lý nhà nước về môi trường không khí, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn chuyên gia cũng nhằm xác định các tiêu chí điều chỉnh pháp luật, nội dung điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; - Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, so sánh đưa 4

10 ra các số liệu để đánh giá thực trạng, rút ra những bất cập, hạn chế, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, để đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tác giả dự kiến sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để tìm hiểu ý kiến quan điểm của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và người dân về vấn đề này. - Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp tọa đàm, phỏng vấn chuyên gia, phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam đồng thời dự báo xu hướng phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong tương lai gần. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Đưa ra các khái niệm, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trên cơ sở nội hàm của kiểm soát và đặc thù của ô nhiễm môi trường không khí. Làm sáng tỏ nguồn gốc của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân biệt với thuật ngữ bảo vệ môi trường không khí; - Xây dựng các cơ sở lý luận nhằm xác định rõ mục đích kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chủ thể kiểm soát, cách thức, công cụ kiểm soát, nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, ; - Xác định nguyên tắc, nội dung điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững; nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường không khí; nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm pháp lý, nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường. - Đưa các tiêu chí điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tính dự báo, cảnh báo; tính phòng ngừa được rủi ro phát sinh; tính nhanh chóng, kịp thời; tính cộng đồng trách nhiệm; tính liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế. - Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; - Xây dựng luận cứ và đề xuất các giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại Việt Nam hướng tới xây dựng Luật Không khí sạch ở Việt Nam; 5

11 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam là công trình nghiên cứu quy mô, mới, từ góc độ khoa học pháp lý, trên cơ sở các quy định trong Luật BVMT năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan. Luận án nghiên cứu làm rõ các vấn đề từ lý luận, pháp lý đến thực tiễn về quá trình phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, phát hiện ô nhiễm không khí, ngăn chặn ô nhiễm không khí và xử lý ô nhiễm không khí,... Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam, đối chiếu pháp luật hiện hành với pháp luật quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới để mổ xẻ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, bất cập. Từ đó đưa ra nhu cầu, định hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu của Luận án có giá trị tham khảo tốt các cơ quan lập pháp, lập quy trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung, đặc biệt là sự ra đời của Luật Không khí sạch ở Việt Nam; cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đào tạo cao học, đại học, cao đẳng chuyên ngành luật. Luận án cũng có giá trị tham khảo đối với các cơ quan thực tiễn trong quá trình thực thi, giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường không khí. 7. Cơ cấu của luận án Mở đầu Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Chương 2. Những vấn đề lý luận về pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Chương 3. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay Chương 4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Kết luận Danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án Danh mục tài liệu tham khảo 6

12 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu, sách, báo, bài viết của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu này, nghiên cứu sinh tổng quan tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau: Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Môi trường không khí là một thành phần quan trọng cấu thành môi trường. Do vậy việc tổng quan các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường nói chung, kiểm soát ô nhiễm môi trường nói riêng, trong đó có pháp luật trong lĩnh vực này sẽ tạo cơ sở nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Về ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung đã có nhiều công trình ở trong nước [8] [28] [94] [96] [118] và nước ngoài [38] [137] [139] [140] [141] [146] nghiên cứu về vấn đề này ở nhiều giác độ khác nhau từ lý luận đến thực tiễn. Theo Từ điển mở Merriam-webster online trên cơ sở liệt kê các nguyên nhân gây ô nhiễm đã chỉ ra: "Ô nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa học, sinh học, bức xạ, tiếng ồn,... gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường xảy ra là do con người và cách quản lý của con người [11]. Tổ chức Y tế thế giới dựa trên tác động của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người và sinh vật, trong một công trình nghiên cứu của mình khẳng định, ô nhiễm môi trường là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Tiếp cận dưới giác độ pháp lý dựa trên tiêu chuẩn môi trường, quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường của Trường Đại học luật Hà Nội hiểu: "Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật [96]... Có thể thấy, ô nhiễm môi trường đe dọa sự sinh tồn cũng như phát triển của con người và sinh vật. Theo kết quả nghiên cứu của Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos, Thụy Sĩ, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe[88], ô nhiễm môi trường không khí là một trong những nguyên nhân chính gây ra các căn bệnh ung thư phổi,...[ 6] [110] [122] [124] [129]... Do vậy, kiểm soát ô nhiễm môi trường có vai trò vô cùng 7

13 quan trọng. Vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ thu hút sự quan tâm nghiên cứu của học giả, các nhà khoa học các nước mà cả các tổ chức quốc tế, như các tổ chức, như: Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Y tế thế giới, Chương trình môi trường liên hợp quốc (UNEP) và nhiều tổ chức quốc tế khác,... cũng đã có những nghiên cứu, hoặc tài trợ cho nhiều công trình nghiên cứu về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Theo Bách khoa toàn thư mở đã định nghĩa kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới giác độ liệt kê kiểm soát các nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường là các chất thải và phát thải đồng thời đề cao biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường, cụ thể: Kiểm soát ô nhiễm bao gồm việc kiểm soát phát thải và chất thải vào không khí, nước và đất. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tụ hoặc phát tán chất ô nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện pháp hiệu quả [11]. Kiểm soát ô nhiễm môi trường (Polluton control) được hiểu một cách tổng quát là tổng hợp các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa, khống chế không cho ô nhiễm xảy ra, hoặc khi có ô nhiễm xảy ra thì có thể chủ động xử lý làm giảm thiểu hay loại trừ được nó. Các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ phải được áp dụng với cấu trúc có sẵn, đó chính là thể chế, luật pháp, chính sách văn bản, tiêu chuẩn, quy định, các giải pháp công nghệ, các công cụ kinh tế, đánh giá tác động môi trường, quan trắc và giám sát môi trường,...[124]. Có thể thấy dưới giác độ kinh tế, kỹ thuật các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường cho thấy hoạt động này được áp dụng chủ yếu trên hai phương diện là mục tiêu giảm thiểu và kiểm soát các loại chất thải thông thường, chất thải nguy hại...; Tiếp cận dưới giác độ pháp lý, quan điểm ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường của Trường Đại học luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội năm 2007 cho rằng: kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên [96]. Đồng thời có phân biệt giữa kiểm soát ô nhiễm môi trường với quản lý nhà nước về môi trường, trong đó kiểm soát ô nhiễm môi trường có nội hàm rộng hơn, thể hiện ở nhiều khía cạnh như mục đích kiểm soát, chủ thể kiểm soát, cách thức, công cụ và phương tiện kiểm soát. Cụ thể mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường chính là nhằm phòng ngừa, khống chế không để ô nhiễm môi trường xảy ra. Còn nếu vì các lý do khác nhau mà ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra thì kiểm soát ô nhiễm chính là hoạt động xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi lại tình trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm; chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ là Nhà nước (thông qua các cơ 8

14 quan quản lý nhà nước về môi trường) mà còn bao gồm các doanh nghiệp, các cộng đồng dân cư, các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân,... Kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ thực hiện bằng biện pháp mệnh lệnh kiểm soát bằng các công cụ hành chính mà còn được thực hiện bằng các công cụ kinh tế, các biện pháp kỹ thuật, các giải pháp công nghệ, các yếu tố xã hội và yếu tố thị trường... trong đó các yếu tố thị trường, yếu tố xã hội ngày càng được quan tâm cân nhắc, lựa chọn. Nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới giác độ pháp lý gồm: thu thập, quản lý và công bố các thông tin về môi trường, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm; ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường; quản lý chất thải; xử lý, khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm,... [96]. Trong khi đó Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội lý giải kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới hai giác độ: Một là, kiểm tra về phương diện môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh kể từ khi đi vào hoạt động cho tới khi chấm dứt hoạt động và quá trình tự kiểm tra, tự giám sát của chính cơ sở sản xuất, kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của mình; hai là, quá trình theo dõi, kiểm tra về phương diện môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh kể từ thời điểm các cơ sở này được cấp quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường đến thời điểm được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. [94]. Không chỉ đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới các giác độ khác nhau, một số công trình nghiên cứu còn xác định nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường. Trong Luận án tiến sĩ: Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt động hàng hải ở Việt Nam, của Lưu Ngọc Tố Tâm đã liệt kê kiểm soát ô nhiễm môi trường, gồm: đánh giá môi trường, quản lý chất thải, hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường; giải quyết các tranh chấp môi trường; kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các hoạt động cụ thể...[90]. Trong Dự án Nhiệm vụ điều tra, khảo sát, xây dựng các bộ tiêu chí khoanh vùng ô nhiễm và đề xuất dự án xây dựng bản đồ ô nhiễm trên phạm vi toàn quốc của Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng Cục Môi trường đã xác định, kiểm soát ô nhiễm bao gồm: kiểm soát các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường (nguồn thải khí ô nhiễm, nguồn thải nước ô nhiễm, nguồn thải chất thải rắn, nguồn thải tiếng ồn, nguồn thải bức xạ), kiểm soát ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, kiểm soát ô nhiễm môi trường các ngành sản xuất công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm môi trường xung quanh ở các khu vực đô thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các làng nghề... và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước mặt, nước ngầm và môi trường nước biển ven bờ [91]. 9

15 Các khái niệm ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường được nêu và phân tích ở trên là những kết quả nghiên cứu quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu. Tác giả sẽ có sự kế thừa hợp lý trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Thứ hai, tổng quan các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Một là, về xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Qua khảo cứu một số các công trình nghiên cứu của nước ngoài cũng trong nước có thể thấy trên thế giới kiểm soát ô nhiễm môi trường là thuật ngữ vẫn còn rất mới trong nhiều ngôn ngữ của nhiều quốc gia. Thuật ngữ này được bắt đầu được đề cập từ năm 1960 của thế kỷ XX sau những cảnh báo được đưa ra bởi các nhà khoa học khi nghiên cứu về hiện trạng ô nhiễm môi trường và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến con người và sinh vật. Ở Việt Nam, qua khảo cứu các công trình nghiên cứu, tác giả chưa thấy một công trình nào nghiên cứu bài bản về vấn đề này, thậm chí trong các giáo trình, các luận án về kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng chưa chỉ ra [8] [28] [67] [77] [94] [96] [100] [110] [118]... Tuy vậy, nghiên cứu chính sách, pháp luật môi trường Việt Nam cho thấy thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường mới được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Bảo vệ Môi trường năm Do vậy, trong đề tài luận án này tác giả sẽ nghiên cứu và lý giải sâu hơn về sự ra đời và phát triển cũng như ghi nhận trong pháp luật Việt Nam về thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường. Hai là, tổng quan các công trình nghiên cứu về khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí. Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi [92]. Hiện nay, đã có môt số công trình, đề tài, bài viết trong và ngoài nước [7] [67] [77] [96] [101] [110] nghiên cứu về vấn đề này dưới giác độ pháp lý đã dựa trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí để xác định ô nhiễm môi trường không khí. Trong Luận văn thạc sĩ: Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam Thực trạng và hướng hoàn thiện của ThS. Vũ Thị Duyên Thủy đã định nghĩa: ô nhiễm môi trường không khí là tình trạng không khí có xuất hiện một, một số chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí làm thay đổi tính chất lý, hóa vốn có của nó và sự thay đổi này phải vi phạm tiêu chuẩn môi trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, gây tác động có hại cho con người và thiên nhiên. [110]. Nguyên nhân của ô nhiễm môi trường không khí là do cả yếu tố tự nhiên và nhân tạo gây ra. Yếu tố tự nhiên gồm hoạt động núi lửa, cháy rừng, bão bụi, quá trình phân hủy động thực vật tự nhiên; nguồn nhân tạo như, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động dân sinh, hoạt động công nghiệp [100]. Có thể thấy, hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng 10

16 tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Việc sử dụng nhiều các phương tiện giao thông như ô tô, xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm tiếng ồn và khí thải đáng lo ngại [135] [136] [137]. Việc thải các chất gây ô nhiễm vào tự nhiên đã làm ô nhiễm bầu khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO 2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO 2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH 4 là 13%, nitơ 5%, CFCs là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%... Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO 2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60 C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 C. Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 4,50 C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng [62]. Do vậy, giữ gìn môi trường không khí được trong lành, để bảo vệ được tầng ozon, ứng phó với biến đổi khí hậu, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có hiệu quả. Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là một thuật ngữ mới mang tính chuyên sâu. Nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường bao hàm trong đó là kiểm soát ô nhiễm đất, nước, thì kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí mang tính đặc thù hơn. Hiện nay, có một số công trình nghiên cứu [67] [77] [96] [100] [110] [116] đã đưa ra các ý kiến về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể trong đề tài: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí của tác giả Hà Thị Phương Ngọc đã định nghĩa: kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân, tiến hành để bảo vệ môi trường không khí khỏi những tác động bất lợi từ phía con người và những biến đổi bất thường của tự nhiên[77]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm những hoạt động, như: ban hành, tổ chức, thực hiện quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, bao gồm nhóm quy 11

17 chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh và nhóm quy chuẩn về khí thải; hoạt động đánh giá tác động môi trường không khí; hoạt động kiểm soát các nguồn thải vào môi trường không khí; hoạt động ngăn chặn, hạn chế ô nhiễm, sự cố, phục hồi môi trường không khí; hoạt động xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng muốn hiệu quả cần phải được pháp luật điều chỉnh. Như trình bày trên có thể thấy, cho đến nay các công trình nghiên cứu trong nước mặc dù đã đưa ra được khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên các khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ nội hàm của từ kiểm soát ô nhiễm, Hơn nữa, khi phân tích khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, các đề tài này lại tiếp cận dưới giác độ liệt kê các quy định, gồm: các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, hoạt động phòng chống, khắc phục ô nhiễm không khí, khắc phục ô nhiễm không khí, và xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí [100]. Việc liệt kê sẽ giúp xác định được cụ thể từng nội dung nghiên cứu, mặt khác cũng có thể dẫn tới trường hợp không liệt kê được đầy đủ nội dung của vấn đề nghiên cứu. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả sẽ kế thừa cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, trên cơ sở đó xây dựng một khái niệm mới có thể khắc phục được một số hạn chế của các khái niệm này. Ba là, tổng quan các công trình nghiên cứu về đặc điểm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Không khí là một thành phần của môi trường nên có những đặc điểm chung của môi trường, tuy nhiên môi trường không khí cũng có những đặc thù riêng khác biệt so với môi trường đất, môi trường nước, Vấn đề này đã có một số công trình nghiên cứu phân tích, nhận diện [67] [77] [96] [100] [110], trong đó trong đề tài: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, của tác giả Nguyễn Kim Thoa đã nhấn mạnh một số đặc điểm, như: không khí không thể phân chia được cho nên không có biên giới, nó có phạm vi rất rộng lớn và điều này dẫn tới việc xác định quyền sở hữu và sử dụng không khí là không thể. Không khí thuộc quyền sở hữu của tất cả các quốc gia, tổ chức và cá nhân. Do vậy rất khó kiểm soát được ô nhiễm không khí nên cần phải kiểm soát được khí thải trước khi nó được thải ra ngoài môi trường; giá trị môi trường không khí không biểu hiện ngay trước mắt, đặc biệt là lợi ích kinh tế, hơn nữa ảnh hưởng của không khí thường tác động đến sức khỏe con người mang tính lâu dài nên mọi người chưa quan tâm bảo vệ; ô nhiễm môi trường không khí là tác nhân dẫn đến biến đổi khí hậu, do vậy ứng phó với biến đổi khí hậu cần gắn với kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; kiểm soát ô nhiễm không khí cần dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến, [100]. 12

18 Thứ ba, tổng quan các công trình nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Để bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, đảm bảo phát triển bền vững đất nước, việc tạo hành lang pháp lý cho vấn đề này đóng vai trò quan trọng. Theo hướng nghiên cứu này hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí, như [15] [42] [61] [67] [77] [90] [100] [110] [113] [116] trong đó đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam, của tác giả Lê Thị Phương Thảo đã tập trung phân tích thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; pháp luật về đánh giá tác động môi trường không khí; pháp luật về trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí,...[116]; Một là, về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói riêng là xương sống của chu trình kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng như môi trường không khí. Nếu không có quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì sẽ không thể xác định đánh giá được hiện trạng môi trường, mức độ ô nhiễm môi trường,... Trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005 gọi thuật ngữ này là tiêu chuẩn môi trường. Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường. Tuy nhiên, theo Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/2/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường năm 2005 thì các tiêu chuẩn môi trường do Nhà nước công bố bắt buộc áp dụng được chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật môi trường (Điều 1). Sự thay đổi này là nhằm phù hợp với các quy định trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm Đã có một số nghiên cứu trong và ngoài nước có đề cập đến quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí [42] [67] [77] [100] [113] [116]. Trong đề tài Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, của tác giả Nguyễn Kim Thoa đã phân tích: "Quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung và quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói riêng được hiểu là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường [100]. Đối với môi trường không khí chuẩn mực này được hiểu là mức độ hoặc phạm vi giới hạn các chất ô nhiễm nhất định trong thành phần môi trường không khí đó. Các giới hạn ấy được cơ quan nhà nước sử dụng để đánh giá hiện trạng môi trường không khí, kiểm soát ô nhiễm không khí, dự báo những thay đổi trong thành phần không khí. Từ đó đưa ra những giải pháp để cải thiện chất lượng môi trường không khí. Về vấn 13

19 đề này trong đề tài: Khía cạnh pháp lý của tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí Việt Nam, của tác giả Trần Thị Thúy cũng phân tích đặc điểm và vai trò của quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; các khía cạnh kỹ thuật, pháp lý, kinh tế - xã hội của quy chuẩn môi trường không khí; thực trạng pháp luật môi trường về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí: gồm quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh và quy chuẩn về khí thải; trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm quy chuẩn kỷ thuật môi trường không khí. Qua đó, đánh giá pháp luật hiện hành của Việt Nam đang thiếu quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí trong lĩnh vực nông nghiệp, một số quy chuẩn đã lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới đồng thời đưa ra kiến giải hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Hai là, tổng quan các công trình nghiên cứu các quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn cho thấy ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng đa phần là do các cá nhân, tổ chức gây ra trong các hoạt động của mình gây ra do vậy họ là chủ thể đầu tiên có vai trò quan trọng trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Đối với môi trường không khí, do có phạm vi rộng, phát tán nhanh, không xác định được chủ sở hữu nên để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí vai trò phòng ngừa của các cá nhân, tổ chức càng trở nên quan trọng hơn. Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, ở nước ta trong một số công trình nghiên cứu [67] [77] [96] [100] [110] [113] [116] [128] cũng đã đề cập vấn đề này, trong đó phân tích các quy định pháp luật môi trường hiện hành về trách nhiệm, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khi tham gia các hoạt động làm ảnh hưởng đến môi trường không khí, như: cá nhân phải có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường khi có các dự án đầu tư có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong kiểm soát nguồn thải động, nguồn thải tĩnh; trách nhiệm ngăn chặn, phục hồi hiện trạng môi trường không khí,... Tuy nhiên, do không nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề này nên đa phần các công trình nghiên cứu chưa nghiên cứu rạch ròi các quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như chưa đánh giá được rõ ràng những thành công, hạn chế của các quy định pháp luật về vấn đề này. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả sẽ tiếp thu các kết quả nghiên cứu trên, như: về chủ thể có nghĩa phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; trách nhiệm, nghĩa vụ, công cụ, phương tiện của các chủ thể này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Ba là, tổng quan các công trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường không khí (ĐTM). Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích dự báo những tác động xấu đối với môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi 14

20 trường khi triển khai dự án đó [96]. Đánh giá tác động môi trường áp dụng với các dự án đầu tư cụ thể có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Đánh giá tác động môi trường lần đầu tiên được ghi nhận ở Hoa Kỳ năm 1970 trong Luật về chính sách môi trường quốc gia. Sau đó ĐTM được lan rộng sang các hệ thống pháp khác như Anh, Cộng hòa liên bang Đức và phần lớn Bắc Âu. Do tầm quan trọng của việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nên các định chế tài chính quốc tế như: Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á đã tích cực thúc đẩy việc tiến hành ĐTM. Đánh giá tác động môi trường ĐTM đã được chính thức ghi nhận trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 của Việt Nam. Trong luận văn thạc sĩ: Pháp luật Việt Nam về đánh giá tác động môi trường, thực trạng và hướng hoàn thiện, của tác giả Võ Trung Tín, Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh năm 2005, đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đánh giá tác động môi trường, trong đó có đánh giá tác động môi trường không khí. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu khác [67] [77] [96] [100] [110] tuy không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về đánh giá tác động môi trường không khí, nhưng cũng có đề cập đến hiện trạng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường chỉ ra những bất cập trong quy định về hội đồng thẩm định, về tổ chức dịch vụ thẩm định, về ý kiến của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án đầu tư,... Đây cũng là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án liên quan đến vấn đề này. Bốn là, tổng quan các công trình nghiên cứu về tổ chức và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân. Nhân dân thành lập ra nhà nước để quản lý xã hội, nộp thuế để Nhà nước thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Do vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm hàng đầu trong kiểm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Hiện nay, ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về trách nhiệm của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên đã có một số công trình nghiên cứu chung về tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước về môi trường, như: Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, của Ban khoa giáo trung ương và Bộ Khoa học công nghệ và môi trường năm 2001 [4], Thực tiễn áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam hiện, nay của tác giả Chu Hoa [48], Quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp, của Phạm Ngọc Đăng[29]... Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu nhỏ về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong đó có đề cập đến trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí [67] [77] [96] [100] [110] 15

21 [116]. Trong đó chỉ ra trách nhiệm của nhà nước trong thành lập hội đồng thẩm định, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, quan trắc hiện trạng, thông tin tình hình môi trường không khí trong đó khẳng định đề cao quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế và nhấn mạnh việc tiếp cận thông tin môi trường sẽ góp phần đảm bảo quyền con người được sống trong một môi trường không bị ô nhiễm, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí,... Không chỉ vậy một số nghiên cứu cũng đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về môi trường nói chung, trong đó có kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Rất nhiều các vụ việc ô nhiễm môi trường được phanh phui thời gian gần đây, như vụ Ve dan, ô nhiễm môi trường Thạch Sơn,... đã cho thấy sự bất lực của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Năm là, tổng quan các công trình nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí của các tổ chức, cá nhân chủ sở hữu nguồn thải. Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí xét cho cùng là kiểm tra, giám sát các hành vi của các tổ chức, cá nhân có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy khi cá nhân, tổ chức không tuân thủ các nghĩa vụ phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí của mình mà có hành vi gây ảnh hưởng, ô nhiễm môi trường không khí thì họ cần phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định. Các công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này, như: Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra, của tác giả Bùi Kim Hiếu; Những điểm mới về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009, của PGS.TS. Phạm Văn Lợi; Ngăn ngừa, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Nhìn từ cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính, lao động, đất đai, môi trường, của PGS.TS.Phạm Hữu Nghị,... [23] [33] [42] [60] [69] [77] [100] [110] [116] đã chỉ ra các trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng với cá nhân là trách nhiệm hành chính, hình sự, dân sự và trách nhiệm kỷ luật. Lý giải phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm hành chính của cá nhân, pháp nhân. Nhiều kiến nghị tăng xử phạt hành chính đối với cá nhân, pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, đối với pháp nhân ngoài trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự ra một số công trình nghiên cứu đề nghị pháp nhân khi có hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể phải chịu cả trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cũng có công trình phản bác lại việc đề nghị hình sự hóa đối với pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm môi trường do mâu thuẫn với lý luận của luật hình sự về yếu tố lỗi. Thứ tư, tổng quan các công trình nghiên cứu về hạn ngạch khí thải, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa. 16

22 Ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến môi trường không khí tầm thấp xung quanh chúng ta mà còn ảnh hưởng đến môi trường không khí tầm xa mà xét cho đến cùng thì hậu quả của nó đều tác động nguy hiểm đến sự tồn tại và phát triển của con người. Khoa học đã chứng mình nếu thải quá nhiều chất thải như clo, flo, cacbon, CO2 thì tầng ozon sẽ bị hiện tượng hiệu ứng nhà kính là nguyên nhân gây nên biến đổi khí hậu toàn cầu. Một trong những giải pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu là phải hạn chế thải các chất gây hiệu ứng nhà kính. Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam được Ngân hàng phát triển châu Á hỗ trợ: Climate Change in Asia: Viet Nam country report, Asian Development Bank, 1994 đã cho thấy khí hậu ở châu Á đã có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng xấu đi cả môi trường đất, nước và đặc biệt là không khí; hay trong bài viết "Carbon-related border tax adjustment: mitigating climate change or restricting international trade?" của Christine Kaufmann, Rolf H. Weber có phân tích việc các quốc gia đánh thuế đối với các hàng hóa chứa nhiều hàm lượng cacbon có phải sẽ giúp ứng phó được với khí hậu hay chỉ là biện pháp để cản trở tự do thương mại; trong khi đó bài viết "Air quality: legal and policy issues, của tác giả Scott Lyness. Env. Law 2010, 56, [Environmental Law], Publication Date: 2010 lại bàn về chính sách và pháp luật để xây dựng một môi trường không khí chất lượng nhằm đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; trong bài viết International treaties and US laws as tools to regulate the greenhouse gas emissions from ships and ports, của Richard Hildreth, Alison Torbitt. I.J.M.C.L. 2010, 25(3), , International Journal of Marine & Coastal Law, Publication Date: 2010 lại khẳng định ở Hoa Kỳ để kiểm soát được khí thải gây hiệu ứng nhà kính ngoài các công ước quốc tế về bảo vệ tầng ozon, ứng phó với biến đổi khí hậu, Hoa Kỳ cũng đã ban hành nhiều đạo luật trong nước về vấn đề này. Đây là hai công cụ pháp lý quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm của nước này, bài viết The institutional and contractual instruments of Kyoto's Clean Development Mechanism, của tác giả Jean-Charles Bancal, Julia Kalfon, International Business Law Journal 2009 thi lại nói đến việc tạo cơ chế pháp lý và dân sự để giúp phát triển sạch tại Tokyo và để hướng tới môi trường không khí sạch nhiều nước đã xây dựng hẳn một đạo luật về không khí sạch History of the Clean Air Act, nguồn Ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và cơ chế phát triển sạch ứng phó với biến đổi khí hậu, như: bài viết "Nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa", Nguyễn Phúc Thủy Hiền, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 năm 2001; luận văn thạc sĩ: Việt Nam với việc thực hiện điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu, hướng tới hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế phát triển sạch và xuất khẩu chứng nhận giảm phát thải khí nhà kính, của Thạc sĩ Phạm Văn Hảo, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 17

23 2012; đề tài khoa học cấp Trường: Xu hướng biến đổi khí hậu và những vấn đề pháp lí đặt ra đối với Việt Nam, của do TS. Phạm Văn Võ làm chủ nhiệm, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh năm 2013, đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí với ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó khẳng định ô nhiễm môi trường không khí là nguyên nhân chính dẫn tới biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu phải dựa trên cơ sở kiểm soát hiệu quả các chất gây hiệu ứng nhà kính. Để thực hiện được điều này chính là phải hoàn thiện cơ chế pháp lý về hạn ngạch khí thải trên cơ sở thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển sạch. Ví dụ như TôKyo, hay các nghiên cứu về lịch sử ra đời và phát triển của đạo luật không khí sạch trên thế giới... Bên cạnh đó, để phục vụ cho luận án, nghiên cứu sinh còn tổng quan các công trình nghiên cứu dưới các giác độ khác nhau về các giải pháp để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: "Air pollution control engineering" của tác giả McGrew- HUI, Inc, Philippe Sands, 1995 phân tích về kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; bài viết The "financial mechanism" and "flexible mechanisms" of the United Nations Framework Convention on Climate Change, của tác giả Jean-Charles Bancal, International Business Law Review 2009 thì phân tích về cơ chế tài chính và sử dụng linh hoạt các công cụ trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong Công ước về chống biến đổi khí hậu,.. Ở Việt Nam để kiểm soát bảo vệ môi trường không khí, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này, có thể liệt kê: [7] [8] [12] [17] [20] [33] [41] [50] [60] [72] [90] [69] [100] [116] [140] [141] [142] Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước này đã tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dưới giác độ kinh tế, kỹ thuật, trong đó đã phân tích các vấn đề từ khái niệm đến kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân tích về cơ chế tài chính và cơ chế linh hoạt trong ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo nguyên tắc của luật môi trường quốc tế đó là bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, 1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục phát triển Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên năm phương diện lớn, như: tổng quan các công trình, các bài viết nghiên cứu chung về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường; về ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; về nguồn gốc của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí; về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa và việc hoàn thiện khung pháp lý về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Qua việc khảo cứu các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này có thể thấy, các nghiên cứu đã làm được những vấn đề sau: 18

24 Thứ nhất, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình đã đưa ra được khái niệm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường không khí. Ở giác độ nhất định cũng đã nêu được khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thứ hai, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình đã phần nào phân tích được các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; đánh giá tác động môi trường nói chung trong đó có đánh giá tác động môi trường không khí; nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế, ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường không khí của các tổ chức cá nhân; phân tích làm rõ các quy định pháp luật về tổ chức và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; về thông tin tình hình môi trường, quan trắc hiện trạng môi trường cũng như xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường. Thứ ba, các công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định cũng phân tích về tác động của ô nhiễm môi trường không khí với tầng ozon và ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó đặt ra vấn đề để kiểm soát được hiện tượng hiệu ứng nhà kính cần phải có sự hợp tác của các quốc gia trong hạn chế khí thải gây biến đổi khí hậu. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả sẽ có sự tiếp thu, kế thừa những thành quả, các giá trị mà các nghiên cứu đã chỉ ra làm nền móng cho việc tiếp tục nghiên cứu đề tài của mình của về lý luận cũng như thực tiễn Các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần tiếp tục nghiên cứu Qua các công trình nghiên cứu đã công bố và được tác giả tổng quan cho thấy việc nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, bất cập sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra một quan niệm đầy đủ về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là chưa tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ này; Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích một cách bài bản về nguồn gốc của sự ra đời của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; Thứ ba, các công trình tuy có đưa ra đặc điểm của môi trường không khí và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên chưa công trình nào có sự phân biệt rạch ròi giữa thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường với thuật ngữ bảo vệ môi trường; đặc điểm của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong mối quan hệ với biến đổi khí hậuntoàn cầu Thứ tư, các công trình nghiên cứu mặc dù có liệt kê nội dung của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào 19

25 định ra các tiêu chí để đánh giá cũng như yêu cầu đối với hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí hiện hành; Thứ năm, về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Có thể thấy đa phần các công trình tập trung nghiên cứu nghiên cứu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu bằng công cụ pháp lý và hành chính mà chưa tập trung vào nghiên cứu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên các công cụ kinh tế, các yếu tố xã hội và các yếu tố thị trường. Thứ sáu, một số nghiên cứu liên quan đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, ví dụ về tiêu chuẩn môi trường không khí, đánh giá tác động môi trường không khí đã lạc hậu không còn phù hợp với pháp luật và thực tiễn pháp lý. Thứ bảy, các công trình nghiên cứu đa phần chưa lý giải rõ cơ sở, mối quan hệ giữa các chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự trong xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí dẫn tới khó khăn trong quá trình áp dụng. Việc đặt ra trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất do có sự mâu thuẫn về cơ sở lý thuyết của vấn đề. Thứ tám, chưa có nhiều nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này một cách bài bản, từ đó so sánh với thực tiễn Việt Nam giúp chúng ta có nhìn nhận vấn đề khách quan toàn diện và khoa học để hoàn thiện khung pháp lý kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, hướng tới xây dựng Luật không khí sạch hoặc Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam. Thứ chín, qua các công trình nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam được tác giả tổng quan cho thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra được giải pháp mang tính hệ thống, toàn diện và bài bản về vấn đề này. Trên cơ sở những vấn đề đặt ra, nghiên cứu sinh dự kiến sẽ đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án Câu hỏi nghiên cứu của đề tài Luận án được triển khai với các câu hỏi về khía cạnh lý luận, khía cạnh pháp luật thực định để làm rõ mục đích của luận án đó là: Thứ nhất, môi trường là gì, môi trường không khí là gì, ô nhiễm môi trường là gì, ô nhiễm môi trường không khí là gì? Ô nhiễm môi trường không khí gây ra tác hại gì? và tại sao phải kiếm soát ô nhiễm môi trường không khí? Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí bằng công cụ gì? 20

26 Thứ hai, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là gì? Nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Chủ thể nào có trách nhiệm, nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Đối tượng, công cụ, phương tiện, mục đích kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Thứ ba, các đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân biệt với kiểm soát ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước; Thứ tư, xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ra đời từ khi nào? Cơ sở của sự ra đời đó là do đâu? Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí khác gì với bảo vệ môi trường không khí? Thứ năm, lý thuyết điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm những gì? Thứ sáu, tiêu chí nào để đánh giá điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Thứ bảy, pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới quy định thế nào vê kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Thứ tám, thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam như thế nào? Thứ chín, thực tiễn áp dụng và thực hiện các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Việt Nam ra sao? Thứ mười, yêu cầu, quan điểm nào đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Giải pháp nào cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Lý thuyết nghiên cứu của đề tài Luận án nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên các lý thuyết sau: - Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên coi trọng phòng ngừa là chính; - Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí để bảo đảm phát triển bền vững quốc gia; - Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu; - Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành; 21

27 Giả thuyết nghiên cứu của đề tài - Quan niệm về môi trường, môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí, tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường không khí và các công cụ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí chưa toàn diện, chưa rõ ràng; - Cơ sơ lý luận của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam chưa đầy đủ, toàn diện; - Các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn bất cập, thiếu sót, tản mạn, chưa có tính hệ thống. - Thực trạng áp dụng, thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn gặp nhiều vướng mắc. - Chưa có phương hướng rõ ràng, xuyên suốt, lâu dài về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Các giải pháp còn chưa đồng bộ, thiếu các giải pháp mang tính đặc thù để khắc phục những hạn chế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và bảo đảm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả. Kết luận Chƣơng 1 Thứ nhất, trên cơ sở tổng quan nhóm các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Qua đó chỉ ra cách hiểu khác nhau về ô nhiễm môi trường không khí, dưới giác độ liệt kê, dưới giác độ y học và dưới giác độ pháp lý.dưới giác độ pháp lý, các nghiên cứu chỉ ra: ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu đều khẳng định những ảnh hưởng xấu của ô nhiễm môi trường đến con người và sinh vật. Hai là, các công trình nghiên cứu đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, thu thập, quản lý và công bố các thông tin về môi trường, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm; ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường; quản lý chất thải; xử lý, khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm,... Thứ hai, tổng quan các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đã khảo cứu các công trình nghiên cứu ở Việt Nam về xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ năm 1960 đến nay. Từ đó chỉ ra thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường mới được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Bảo vệ Môi trường năm Do vậy, trong đề tài luận án này tác giả sẽ nghiên cứu và lý giải sâu hơn về sự ra đời và phát triển cũng như ghi nhận trong pháp luật Việt Nam về thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi 22

28 trường. Bên cạnh đó, Chương này cũng tổng quan các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở các giác độ khác nhau từ giác độ pháp lý, cho đến giác độ liệt kê,... Qua đó cho thấy mặc dù các công trình nghiên cứu đã đưa ra được khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chỉ ra đặc điểm của ô nhiễm môi trường không khí như: không khí không thể phân chia, khó xác định quyền sở hữu; giá trị môi trường không khí không biểu hiện ngay trước mắt, đặc biệt là lợi ích kinh tế; kiểm soát ô nhiễm không khí cần dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến, Mặc dù vậy, các nghiên cứu khi đưa ra các khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí chưa thể hiện đầy đủ nội hàm của từ kiểm soát ô nhiễm, Thứ ba, tổng quan các công trình nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Qua đó, một là, chỉ ra pháp luật hiện hành của Việt Nam đang thiếu quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí trong lĩnh vực nông nghiệp, một số quy chuẩn đã lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới đồng thời đưa ra kiến giải hoàn thiện pháp luật về vấn đề này; hai là, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu các quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như chưa đánh giá được rõ ràng những thành công, hạn chế của các quy định pháp luật về vấn đề này; ba là, đã có một số công trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường, tuy không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về đánh giá tác động môi trường không khí, nhưng cũng có đề cập đến hiện trạng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường chỉ ra những bất cập trong quy định về hội đồng thẩm định, về tổ chức dịch vụ thẩm định, về ý kiến của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án đầu tư,...; bốn là, về trách nhiệm của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí,các công trình nghiên cứu đã chỉ ra trách nhiệm của nhà nước trong thành lập hội đồng thẩm định, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, quan trắc hiện trạng, thông tin tình hình môi trường không khí trong đó khẳng định đề cao quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế và nhấn mạnh việc tiếp cận thông tin môi trường sẽ góp phần đảm bảo quyền con người được sống trong một môi trường không bị ô nhiễm, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí,... Không chỉ vậy một số nghiên cứu cũng đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về môi trường nói chung, trong đó có kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Năm là, về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Các các công trình nghiên cứu đã chỉ ra các trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng với cá nhân là trách nhiệm hành chính, hình sự, dân sự và trách nhiệm kỷ luật. Lý giải phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm hành chính của cá nhân, pháp nhân. 23

29 Nhiều kiến nghị tăng xử phạt hành chính đối với cá nhân, pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, đối với pháp nhân ngoài trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự ra một số công trình nghiên cứu đề nghị pháp nhân khi có hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể phải chịu cả trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cũng có công trình phản bác lại việc đề nghị hình sự hóa đối với pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm môi trường do mâu thuẫn với lý luận của luật hình sự về yếu tố lỗi. Thứ tư, tổng quan các công trình nghiên cứu về hạn ngạch khí thải, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước này đã tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dưới giác độ kinh tế, kỹ thuật, trong đó đã phân tích các vấn đề từ khái niệm đến kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân tích về cơ chế tài chính và cơ chế linh hoạt trong ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo nguyên tắc của luật môi trường quốc tế đó là bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, Thứ năm, đã chỉ ra những thành tựu trong các công trình nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục phát triển và các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần tiếp tục nghiên cứu; Thứ sáu, đã xác định rõ cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án dựa trên lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí lấy phòng ngừa là chính, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, bảo đảm phát triển bền vững và nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; Thứ bảy, đặt ra một loạt các câu hỏi nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; đưa ra các lý thuyết nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu để giải quyết được hiệu quả các câu hỏi nghiên cứu. 24

30 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ 2.1. Lý luận về ô nhiễm môi trƣờng không khí và kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không khí Khái niệm, đặc điểm của môi trường không khí Khái niệm môi trường không khí Hiện nay, trên thế giới và cả Việt Nam có nhiều cách hiểu khác nhau về môi trường. Dưới giác độ triết học, môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy [130,tr618]. Dưới giác độ phát triển bền vững, tác giả cho rằng môi trường được hiểu bảo gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Còn theo quan điểm được ghi nhận trong Luật Bảo vệ Môi trường 2005 thì, môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có tác động đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Luật Bảo vệ môi trường 2014 hiện hành định nghĩa về môi trường một cách xúc tích hơn, coi môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật [83]. Tuy nhiên, theo định nghĩa này cũng chưa thể hiện được mối quan hệ biện chứng giữa con người và môi trường (chúng ta chỉ thấy sự tác động một chiều từ môi trường đến con người mà không thấy con người cũng có thể tác động trở lại môi trường. Do vậy, trong luận án này tác giả hiểu môi trường là hệ thống các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Các yếu tố tự nhiên, gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác. Còn các yếu tố vật chất nhân tạo do con người tạo ra, như: đường xá, cầu cống, sân bay, bến cảng, nhà ga, Các yếu tố này tác động đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật và ngược lại con người cũng tác động trở lại nó theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi. Còn không khí là yếu tố tự nhiên, một thành phần của môi trường, cấu thành môi trường sống. Quan niệm chung trên thế giới, không khí hay khí quyển được hiểu đơn giản là khối khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hút của trái đất. Không khí là một phần của khí quyển, là bộ phận tiếp xúc trực tiếp với con người cũng như dễ bị con người tác động đến [59]. Dưới góc độ hóa lý, theo quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014 thì, không khí là một hỗn hợp của các chất 25

31 khí, không khí không màu, không mùi và không vị, trong không khí có 0,95% oxy, 78,9% nito, 0,93% acgong, 0,32% dioxit cacbon. Ngoài ra không khí còn có một số khí hiếm khác như: metan, hêli, neon, krypton và hơi nước [97,165]. Tuy nhiên, cũng theo cách hiểu này, tài liệu khác lại cho rằng thể tích oxy trong môi trường không khí không phải là 0,95% mà chiếm 20,9%. Cụ thể: môi trường không khí là lớp chất khí bao quanh hành tinh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của trái đất. Nó gồm có nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác. Qua đó có thể thấy cách hiểu về môi trường không khí chưa hẳn đã có sự đồng nhất với nhau. Tác giả cho rằng, môi trường không khí là hỗn hợp các chất khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của trái đất, như nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác có tác động qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Trong mối quan hệ giữa con người với môi trường không khí có sự tác động qua lại lẫn nhau, không chỉ có không khí tác động đến con người mà con người cũng tác động trở lại đến môi trường không khí, theo đó con người có thể giữ/làm cho môi trường không khí trong lành hơn, nhưng cũng có thể làm cho môi trường không khí bị ô nhiễm hơn. Môi trường không khí phải có những đặc điểm sau: Đặc điểm của môi trường không khí Môi trường không khí là một bộ phận quan trọng cấu thành môi trường sống, do đó ngoài các đặc điểm chung của môi trường, so với môi trường đất, nước, môi trường không khí có nhiều điểm khác biệt từ tính chất lý hóa đến vai trò, tầm quan trọng của không khí đối với mọi mặt của đời sống xã hội: Thứ nhất, với tính cách là một thành phần của môi trường sống, môi trường không khí được cấu thành bởi các yếu tố khác so với môi trường đất, môi trường nước. Theo đó môi trường không khí là hỗn hợp các chất khí bao trùm toàn cầu và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, như: nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác để cung cấp dưỡng khí thiết yếu cho sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật; Thứ hai, môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nhanh. Như đã phân tích ở trên môi trường không khí bao gồm các phần tử khí bao quanh trái đất, các phần tử khí này luôn chịu tác động của các hiện tượng tự nhiên cũng như nhân tạo của con người, như: gió làm khuếch tán môi trường không khí, mưa làm các phần tử khí có xu hướng bị co kéo, biến đổi; bão, ánh sáng, âm thanh cũng làm cho các phần tử không khí bị tác động, biến đổi không ngừng ; 26

32 Thứ ba, môi trường không khí không thể phân chia được ranh giới. Còn môi trường đất hay môi trường nước đều có thể phân chia được ranh giới. Đất đai không chỉ là cơ sở vật chất cấu thành nên một quốc gia mà còn có vai trò quan trọng với đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người. Con người xây nhà ở và các công trình trên đất, trồng trọt, chăn nuôi trên đất, Trên trái đất diện tích đất tự nhiên rộng lớn và được chia thành 6 châu lục: châu Á, châu Mỹ, châu Phi, châu Âu, châu Nam Cực, đất đai tại các châu lục này lại được phân chia thành trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có vị trí, ranh giới rõ ràng, xác định. Trong các quốc gia, vùng lãnh thổ đó lại chia thành các đơn vị hành chính nhỏ hơn. Ví dụ: Việt Nam được chia nhỏ thành các đơn vị tỉnh, các tỉnh chia nhỏ thành các huyện các huyện chia nhỏ thành nhiều xã và các đơn vị này có vị trí, ranh giới rõ ràng, xác định trên thực địa. Còn môi trường nước là cơ sở quan trọng của sự sống hay nói cách khác, nước là sự sống, không có nước thì không có sự sống, điều đó lý giải tại sao các nhà khoa học đi tìm sự sống trên hành tinh khác, cái đầu tiên họ tìm là hành tinh đó có nước hay không. Trên trái đất có nguồn nước rất lớn với ¾ bề mặt trái đất được bao phủ bởi nước, trong đó có trên 97% là nước biển còn hơn 2% là nước ngọt. Sự đa dạng phong phú về nguồn nước là cơ sở tạo nên sự đa dạng về các loài sinh vật trên trái đất. Môi trường nước mặc dù bao phủ phần lớn trái đất như nước trên các đại dương, nhưng rõ ràng có thể phân chia được ranh giới, bởi các yếu tố tự nhiên, cũng như yếu tố nhân tạo và kỹ thuật. Ví dụ: nước giữa các hồ, biển hồ nằm trong đất liền thì sẽ tạo ra giới hạn với vùng nước đó với nguồn nước khác bởi đất bao quanh; thậm chí biển cả, các dòng sông quốc tế thì người ta vẫn có thể phân biệt được ranh giới nguồn nước trên cơ sở các điều kiện tự nhiên và kỹ thuật. Do vậy chúng ta có thể dễ dàng xác định và phân biệt được đó là sông hồ, vùng biển của quốc gia nào, tỉnh nào, huyện nào, xã nào theo và gắn với trách nhiệm của các đơn vị hành chính, các quốc gia đó trong bảo vệ môi trường nước. Tuy nhiên, môi trường không khí thì không hẳn như vậy nó bao gồm các phân tử khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hút của trái đất, môi trường không khí nó mang tính bao trùm nên không bị giới hạn bởi các yếu tố tự nhiên cũng như con người. Các yếu tố tự nhiên giới hạn môi trường không khí trong bầu khí quyển xung quanh trái đất, con người chỉ có thể giới hạn được môi trường không khí ở quy mô rất nhỏ hoặc trong phòng thí nghiệm. Theo luật quốc tế về biên giới lãnh thổ thì vẫn có thể phân biệt được biên giới trên không giữa các quốc gia nó được tạo ra bởi biên giới xung quanh và biên giới trên cao. Biên giới xung quanh được xác định dựa trên đường biên giới trên bộ và trên biển (nếu có) kéo thẳng lên hướng vào tâm trái đất, còn đường biên giới trên cao là đường thẳng nằm song song với bề mặt trái đất nhằm phân định giữa biên giới trên không của các quốc gia với khoảng không vụ trụ của nhân loại. Tuy nhiên, đó chỉ là ranh giới về mặt địa lý, kỹ thuật, còn về góc độ lý hóa thì 27

33 các phần tử khí trong môi trường không khí không bị giới hạn bởi ranh giới địa lý đó hay nói cách khác là ranh giới đó hoàn toàn không chặn được. Do vậy, chúng ta thường nói trái đất là ngôi nhà chung, và do không phân định được ranh giới thực sự của môi trường không khí mới dẫn tới hiện tượng ô nhiễm môi trường không khí ở nước này, nhưng ảnh hưởng đến môi trường không khí của nước khác. Ví dụ: cháy rừng ở Inđônêxia dẫn đến ô nhiễm khói mù ở Singapore, Malaysia hay Philippin, Rò rỉ chất phóng xạ hạt nhân ở Nhật Bản ảnh hưởng tạo ra các đám mây phóng xạ, theo gió bay đến các quốc gia khác và gây ô nhiễm môi trường không khí ở quốc gia khác. Thứ tư, tính không xác định chủ sở hữu cụ thể của môi trường không khí. Không khí không thuộc quyền sở hữu riêng của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào mà thuộc sở hữu chung của tất cả mọi người, của các quốc gia và của toàn cầu. Khác với không khí, do có thể phân chia, xác định ranh giới được nên đất đai có thể xác định được chủ sở hữu, là cơ sở để cấu thành quốc gia nên ở phạm vi rộng đất đai thuộc chủ quyền của quốc gia do quốc gia quản lý, thậm chí có quốc gia như Việt Nam chúng ta thì coi đất đai thuộc sở hữu toàn dân, và ranh giới đất đai để phân định với đất đai của quốc gia khác là đường biên giới trên bộ và đường biên giới trong lòng đất. Còn trong phạm vi quốc gia đất đai được phân chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ cũng như các thửa nhỏ và đều có chủ sở hữu, sử dụng xác định. Về nguồn nước, mặc dù mang tính luân chuyển hơn so với đất, nhưng việc xác định chủ sở hữu với nguồn nước không khó. Ở Việt Nam, pháp luật quy định đất đai, rừng núi, sông hồ, biển đảo, tài nguyên nước là thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước là đại diện chủ sở hữu và quản lý toàn bộ nguồn tài nguyên này. Còn môi trường không khí do tính bao trùm không xác định được ranh giới của nó nên việc xác định quyền sở hữu về môi trường không khí dường như là điều không thể. Không thể xác định không khí bên lãnh thổ nước mình là hoàn toàn độc lập và tách rời với không khí của quốc gia khác, cũng như không thể khẳng định không khí này của riêng tôi, còn không khí kia là của anh. Do vậy, môi trường không khí bao trùm lên mọi quốc gia, tất cả mọi người. Qua đó có thể khẳng định môi trường không khí là tài sản chung của cả nhân loại và phải được tất cả các nhà nước, mọi người cùng nhau bảo vệ. Thứ năm, tính khó xác định giá trị của môi trường không khí. Đối với tài nguyên nước, tài nguyên đất,... giá trị về mặt kinh tế được thể hiện rõ ràng ngay lập tức, còn không khí mặc dù rất quan trọng, nhưng giá trị của nó con người không nhận ra rõ ràng ngay lập tức mà chỉ khi môi trường không khí bị ô nhiễm con người mới nhận ra giá trị của nó. Còn đất đai không chỉ là cơ sở cấu thành lãnh thổ quốc gia mà đất đai còn là một loại tài sản đặc biệt, bởi nó có giá trị và giá trị sử dụng. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa các quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường thì thị trường mua bán đất đai (bất 28

34 động sản) được thừa nhận và phát triển mạnh. Nó có tác dụng thúc đẩy các thị trường khác phát triển và phát triển nền kinh tế nói chung. Ở Việt Nam, mặc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng các tổ chức, cá nhân cũng được nhà nước giao, cho thuê, công nhận, cho phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, và quyền sử dụng đất được coi là một quyền tài sản, người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, cho thuê, cho thuê lại. Các giao dịch này mang lại giá trị và nguồn thu lớn cho các tổ chức, cá nhân tham gia và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Còn đối với tài nguyên nước do giá trị của nguồn nước đối với sự tồn tại, phát triển, đời sống và hoạt động sản xuất của con người nên giá trị của nguồn nước được xác định rất rõ. Ở quy mô quốc gia nhiều quan điểm cho rằng chiến tranh tương lai là chiến tranh về nguồn nước. Ví dụ: tranh chấp ở khu vực bờ Tây sông Gioóc Đan giữa Ixraen và Plestin thực chất là tranh chấp về nguồn nước của dòng Sông này. Thậm chí ở lưu vực sông MeKong ở khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, nếu các quốc gia không có những giải pháp mang tính toàn diện để quản lý và sử dụng hợp lý nguồn nước mà cứ mạnh ai ấy làm như hiện nay thì tương lai không xa tranh chấp về sử dụng nguồn nước rất có thể sẽ xảy ra và gây ra những thiệt hại khó lường với không chỉ khu vực mà cả quốc tế. Những quốc gia sa mạc hoặc quốc đảo như Singapo do thiếu nước ngọt nên thậm chí phải mua nước ngọt của Malaisia, Ở giác độ cá nhân thì nguồn nước cũng được sử dụng hàng ngày mà vấn đề là nước thì không phải ở đâu cũng có, cũng dễ dàng lấy ngay được. Do vậy, việc tài nguyên nước được mua bán, trao đổi không có gì lạ, thậm chí ở một số quốc gia nước còn đắt hơn cả tài nguyên khoáng sản khác. Ví dụ như: tại Venezuela nước còn đắt hơn xăng dầu [32]. Điều làm nên giá trị rõ ràng của đất và nước không hẳn chỉ là giá trị của nó với sinh tồn của con người mà mà còn là giá trị của nó với đời sống và hoạt động sản xuất, mà đời sống sản xuất lại là hoạt động hàng ngày của con người. Trong khi đó môi trường không khí thì bao trùm ai cũng có thể thụ hưởng nó, giá trị của môi trường không khí liên quan đến sự tồn tại của con người là rất lớn. Bởi thiếu thức ăn thì sự sống của con người có thể tính bằng ngày, thiếu nước uống thì sự sống con người được tính bằng giờ, còn thiếu không khí thì sự sống của con người chỉ có thể tính bằng phút, thậm chí là giây. Tuy nhiên, đối với đời sống, sản xuất thì giá trị của môi trường không khí lại thể hiện không được nhiều. Ví dụ: hiện nay không khí chưa được coi là một loại hàng hóa, nó tham gia vào rất ít các giao dịch. Ví dụ: dịch vụ bơm xe đạp, xe máy hoặc các dụng cụ vui chơi trẻ em,, do không khí mang tính bao trùm như đã trình bày trên. Do vậy con người chỉ có thể nhận ra giá trị của môi trường không khí khi nó bị ô nhiễm. Đó là điều đáng tiếc. Thứ sáu, sự tác động của môi trường không khí đến sức khỏe, tính mạng con người thường chậm nên khó xác định được chính xác thiệt hại. Môi trường không khí 29

35 thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần. Theo cảnh báo của Tổ chức Y tế thế giới thì ô nhiễm môi trường không khí là một trong các nguyên nhân gây ra các căn bệnh liên quan đến hô hấp hay ung thư phổi, đặc biệt là ô nhiễm bụi mịn (PM < 2.5 micromet). Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường không khí không phải ngay lập tức gây cho người hít phải bị ngay những căn bệnh này mà nó là quá trình diễn ra từ từ, dần dần, khi các chất ô nhiễm tích tụ thấm dần vào cơ thể con người dẫn tới những căn bệnh nan y hiện nay khoa học vẫn vô phương cứu chữa này. Với tư cách là một trong các thành tố chính cấu thành môi trường sống, môi trường không khí có vai trò rất quan trọng đối với đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Nếu không có không khí con người và sinh vật sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Mặc dù môi trường không khí có tầm quan trọng như vậy song môi trường không khí ở Việt Nam lại đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm ở nhiều nơi và ngày càng trở lên trầm trọng Khái niệm, đặc điểm, phân loại ô nhiễm môi trường không khí Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí Môi trường không khí ban đầu vốn cân bằng là điều kiện thuận lợi cho con người và sinh vật tồn tại và phát triển bình thường. Tuy nhiên, khi bị chất ô nhiễm tác động sẽ làm thành phần môi trường không khí bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Chất ô nhiễm là một số chất có trong khí quyển ở một nồng độ cao hơn mức bình thường cần có hoặc chất đó thường không có trong không khí. Dưới góc độ vật lý, chất ô nhiễm là chất và yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm [94]. Còn dưới giác độ pháp lý, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, chất gây ô nhiễm là các chất hóa học, các yếu tố vật lý và sinh học khi xuất hiện trong môi trường cao hơn ngưỡng cho phép làm cho môi trường bị ô nhiễm (khoản 11, Điều 3) [83, 4]. Vậy ô nhiễm môi trường là gì? Ô nhiễm môi trường nói chung được hiểu là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Còn ô nhiễm không khí, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần của không khí hoặc có sự xuất hiện các khí lạ làm cho không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa, gây biến đổi khí hậu, gây bệnh cho con người và sinh vật [11]. Ở góc độ tổng hợp, ô nhiễm môi trường không khí là có sự biến đổi môi trường theo hướng bất lợi đối với cuộc sống của con người, của động vật và thực vật, mà sự thay đổi đó chủ yếu lại chính do hoạt động của con người gây ra với quy mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc 30

36 gián tiếp tác động làm thay đổi mô hình, thành phần hóa học, tính chất vật lý và sinh học của môi trường không khí. Tác giả cho rằng, ô nhiễm môi trường không khí là sự biến đổi của thành phần môi trường không khí không phù hợp/vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Nhìn lại lịch sử thế giới có thể thấy, ô nhiễm môi trường không khí không phải là vấn đề mới và mới được phát hiện, mà nó đã được đề cập cách đây hàng thế kỷ. Hơn 300 năm trước, nhà khoa học John Evalyn, chuyên bút ký và ghi chép khoa học đã minh họa với độ chính xác cao về tác động của ô nhiễm môi trường không khí do đốt cháy nhiên liệu gây ra, như: làm đục bầu trời, làm giảm bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất, làm con người bị đau yếu và tử vong, phiền muộn lo âu vì hít thở phải bụi, khói, khi độc, [68]. Tuy nhiên, đến thể kỷ XX, đặc biệt là những thập kỷ gần đây, khi các thảm họa khủng khiếp hơn và phát triển các nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá cẩn thận tác hại khủng khiếp do ô nhiễm môi trường không khí gây ra, con người mới bắt đầu quan tâm đến môi trường không khí, cũng như nghiên cứu các biện pháp để phòng ngừa nó Đặc điểm của ô nhiễm môi trường không khí Thứ nhất, phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí thường rộng, bởi môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nên chất gây ô nhiễm được thải vào môi trường không khí sẽ không tập trung mà theo gió phát tán ra môi trường. Nên việc phát hiện được ô nhiễm cũng như mức độ ô nhiễm môi trường không khí là rất khó khăn. Ví dụ: coca cola là hãng nước ngọt có ga hàng đầu thế giới rất nổi tiếng với các vấn đề về trách nhiệm xã hội, trong đó có việc quan tâm đến bảo vệ môi trường. Mặc dù vậy người ta mới phát hiện ra tại cơ sở sản xuất của hãng tại Hà Nội (Hà Tây cũ) có hành vi lén xả thải chất ô nhiễm chưa xử lý vào ban đêm[100]. Có thể thấy, hành vi này đã diễn ra nhiều năm, nhưng do thải vào ban đêm nên khi trời sáng thì chất gây ô nhiễm không còn tích tụ ở khu vực đó nữa nên rất lâu sau mọi người mới phát hiện được hành vi này. Thực tế là tính làn truyền, khuếch tán ở chừng mực nhất định có thể làm giảm mức độ ô nhiễm môi trường không khí, góp phần giảm tác động cấp tính đến con người tại nơi ô nhiễm ngay trong một thời điểm, nhưng rõ ràng nó làm cho nhiều khu vực phải hứng chịu ô nhiễm hơn. Bởi xét cho cùng không phải tính khuếch tán lan truyền mà có thể làm mất nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí. Bởi môi trường không khí mặc dù rất rộng nhưng được giới hạn trong bầu khí quyển xung quanh trái đất và nó cũng có sức chịu tải nhất định. Nếu chúng ta cứ xả thải chất gây ô nhiễm vượt quá sức chịu tải, tự cân bằng của môi trường không khí thì biểu hiện của ô nhiễm môi trường không khí sẽ rõ ngay. Ví dụ: ô nhiễm khói mù, ô nhiễm bụi, ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí thải ; 31

37 Thứ hai, ô nhiễm môi trường không khí mang tính xuyên biên giới. Không giống như đất đai, nguồn nước có thể phân chia được ranh giới, còn môi trường không khí lại không thể phân chia được nên ô nhiễm môi trường không khí thường mang tính xuyên biên giới, không loại trừ một quốc gia nào, giàu có hay không và vị trí địa lý ra sao cũng đều có thể bị ô nhiễm môi trường không khí cũng như phải hứng chịu những tác hại từ ô nhiễm môi trường không khí mà nguyên nhân có thể không phải do nước mình gây ra. Ví dụ: cháy rừng ở Inđônêxia không chỉ gây ô nhiễm khói bụi cho nước này mà còn ảnh hưởng đến cả Malaysia và Singapore, ; Thứ ba, ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, tổ chức cụ thể mà thường ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người, như: một cộng đồng dân cư (thôn, làng, bản, ấp, ), ảnh hưởng đến nhiều cộng đồng dân cư các địa phương, thậm chí là ảnh hưởng đến nhiều quốc gia. Do vậy, mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí thường rất lớn. Thứ tư, ô nhiễm môi trường không khí thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động, thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần. Do vậy vấn đề bảo vệ, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thường không được quan tâm kịp thời. Thứ năm, ô nhiễm không khí không chỉ ảnh hưởng lớn đến môi trường không khí tầm thấp gần bề mặt trái đất mà còn dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí tầm xa làm suy giảm tầng ozon, hay gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra những hiện tượng tự nhiên bất thường, như bão, động đất, sóng thần, núi lửa phun trào, ; Thứ sáu, thành phần lý hóa cấu thành môi trường không khí khác so với môi trường đất, môi trường nước. Không khí là một hỗn hợp các chất khí không màu, không mùi, không vị bao quanh trái đất với những phần tử khí cần thiết bảo đảm sự tồn tại phát triển bình thường của con người và hệ sinh thái. Do vậy, khi các chất gây ô nhiễm tác động nó sẽ làm biến đổi thành phần môi trường không khí theo hướng bất lợi với đời sống của con người và sinh vật. Mặc dù không khí rất quan trọng với cuộc sống của con người, nhưng nhận thức của người dân về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn chưa đầy đủ. Rất nhiều các cơ sở công nghiệp, các làng nghề, các cá nhân thường chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế của cá nhân mà quên đi bảo vệ môi trường không khí cho cả cộng đồng Phân loại ô nhiễm môi trường không khí Căn cứ vào nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí, có thể chia ô nhiễm môi trường không khí thành: Ô nhiễm khí thải, Ô nhiễm bụi, Ô nhiễm chì Pb, Ô nhiễm mùi, Ô nhiễm khói, Ô nhiễm tiếng ồn, Ô nhiễm ánh sáng, Ô nhiễm sóng, ; 32

38 - Căn cứ vào nguồn gây ô nhiễm môi trường, có thể chia ô nhiễm môi trường không khí thành: ô nhiễm không khí do các hoạt động tự nhiên gây ra và ô nhiễm không khí do các hoạt động của con người gây ra. - Ô nhiễm không khí do các hoạt động tự nhiên gây ra. Ở đây hoạt động tự nhiên được hiểu là những hoạt động gây ô nhiễm không phụ thuộc vào ý chí của con người. Bao gồm: Núi lửa, Cháy rừng do sấm sét, Bão bụi, ; - Ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn nhân tạo gây ra, bao gồm: hoạt động công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động dân sinh, ; Căn cứ vào giới hạn, tầng khí quyển bị ô nhiễm không khí Ô nhiễm môi trường không khí được chia thành ô nhiễm môi trường không khí tầm thấp (sát bề mặt trái đất) và ô nhiễm môi trường không khí tầm xa (ô nhiễm tầng ozon). Nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm gần đặt vấn đề cần kiểm soát toàn bộ những chất khí thải độc hại có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến con người và sinh vật, thì kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa nhấn mạnh đến việc kiểm soát các chất khí thải nhà kính nhằm bảo vệ tầng ozon, ứng phó với biến đổi khí hậu [38] [40]. Căn cứ vài phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí Ô nhiễm môi trường không khí gồm ô nhiễm môi trường không khí trong phạm vi một cộng đồng, một địa phương, một vùng, một quốc gia, một khu vực hoặc ô nhiễm môi trường không khí toàn cầu, Qua phân loại ô nhiễm môi trường không khí, chúng ta thấy nó có rất nhiều chiều cạnh, và từ đó có thể giúp tiếp cận vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở nhiều giác độ hơn Nhu cầu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam Ở Việt Nam, trước khi tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa năm 1986 hầu như chưa có ô nhiễm môi trường nói chung cũng như ô nhiễm môi trường không khí nói riêng. Thực tế thì thời kỳ này vẫn có nhiều tác động từ tự nhiên cũng như con người vào môi trường không khí. Ví dụ: như cháy rừng, khí thải từ các nhà máy, xí nghiệp của nhà nước, hoạt động đun, đốt sinh hoạt của người dân, nhưng có thể khẳng định ở nước ta những tác động này chưa vượt quá ngưỡng chịu tải của môi trường không khí gây ô nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn đó cũng lý giải tại sao thời kỳ này chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh trực tiếp về vấn đề bảo vệ môi trường nói chung chứ chưa nói đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa phát huy nội lực và thu hút đầu tư nước ngoài thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Quá trình mở cửa hội nhập này đã mang lại nhiều thành tựu cho Việt Nam về phát triển kinh tế, nâng cao đời 33

39 sống người dân. Mặc dù vậy, sự phát triển theo chiều rộng, thiếu tầm nhìn quy hoạch trong một thời gian dài cũng làm cho Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề về cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí. Ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Cụ thể: - Tác động của môi trường không khí đến sức khỏe con người Ô nhiễm môi trường không khí có những ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe con người, đặc biệt đối với đường hô hấp. Tiếp xúc trong khoảng thời gian dài với không khí ô nhiễm sẽ làm ảnh hưởng tới sức khỏe phụ nữ đang mang thai, thúc đẩy quá trình lão hóa trong cơ thể sống, suy giảm chức năng của phổi, gây bệnh hen suyễn viêm phế quản, gây bệnh ung thư, tim mạch và làm giảm tuổi thọ con người. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế Việt Nam, trong những năm gần đây, các bệnh về đường hô hấp có tỷ lệ mắc cao nhất toàn quốc và một trong các nguyên nhân là do ô nhiễm không khí [33]. Còn theo cơ quan quốc tế chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư IARC thuộc Tổ chức Y tế thế giới, đã xếp ô nhiễm không khí là một trong các nguyên nhân hàng đầu gây bệnh ung thư ở người. Năm 2010, có người bị tử vong do ung thư phổi trên toàn thế giới liên quan đến ô nhiễm không khí [75]. Ví dụ: ô nhiễm môi trường không khí làng nghề ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đặc biệt là trẻ em. Theo điều tra môi trường làng nghề dệt ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em ở đó kết quả như sau: 22,9% bị đau họng, 19,1% ngạt mũi, 15,5% thở khò khè, 9,9% ho kéo dài, 7,6% ngứa mắt, 65,9% trẻ em nhịp mạch tăng cao hơn so với tiêu chuẩn lứa tuổi, ù tai 22,9%, đau tai 12,2%, nghe kém 9,2% [78]. Đe dọa tới tăng trưởng kinh tế: với một loạt các tác động với hạ tầng đô thị, hoạt động du lịch và sức khỏe con người, ô nhiễm không khí đã gây ra những tổn thất kinh tế không nhỏ. Ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội mỗi ngày lên tới hàng tỷ đồng (khoảng 23 triệu USD/năm [18]. Không khí bị ô nhiễm còn làm gia tăng chi chí khám chữa bệnh do ảnh hưởng đến sức khỏe của hàng triệu người. Theo tính toán của Ngân hàng thế giới hiện nay các nước đang phát triển ở Châu Á cần phải chi phí lớn nhất cho vấn đề này. Ví dụ: Lào hàng năm phải chi khoảng 7,43% tổng thu nhập quốc dân cho bảo vệ môi trường. Tỷ lệ chi phí đó ở Việt Nam là 7,2%, Campuchia là 5,5%, Trung Quốc là 4,7%. Trong khi đó tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ chiếm 1,3% đến 2% tổng thu nhập quốc dân như: Hà Lan, 1,93%, Anh 1,42%, Pháp 1,3%. [18] Ảnh hưởng tới khí hậu Biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng là một hiểm họa vô cùng lớn. Sự biến đổi diễn ra trên toàn cầu, trong các khu vực, bao gồm cả các thay đổi trong các thành phần 34

40 hóa học của khí quyển, biến đổi nhiệt độ, bề mặt nước biển dâng, các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai tăng lên đáng kể về số lượng và cường độ. Hiệu ứng bức xạ do thay đổi nồng độ khí nhà kính trong khí quyển đã làm khí hậu toàn cầu nóng lên. Theo tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thì sự nóng lên của khí hậu trái đất không còn đơn thuần là vấn đề môi trường mà trở thành vấn đề của sự phát triển. Hiệu ứng nhà kính tác động đến tất cả quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng đang chịu hậu quả của hiện tượng này. Khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi thì nhiệt độ bề mặt trái đất tăng khoảng 3 0 c. Trong khoảng thời gian từ 1885 đến 1940 nhiệt độ trái đất đã tăng 0,5 0 c do thay đổi của nồng độ CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến 0,035%. Dự báo nếu không có biện pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên 1,5 đến 4,5 0 c. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng lên khoảng 0,5 đến 0,7 0 c, trong đó nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè, nhiệt độ miền Bắc tăng nhanh hơn miền Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nhiều nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng [125]. Ảnh hưởng tới hệ sinh thái Cho đến nay, các nhà khoa học đều cho rằng ô nhiễm không khí là một nhân tố làm suy giảm sự đa dạng sinh học trong đó hệ sinh thái nước ngọt bị ảnh hưởng nhiều nhất. Sự ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí liên quan chủ yếu đến việc suy giảm, làm yếu đi các loài mà không phải là gây ra tuyệt chủng. Tuy nhiên, với xu hướng tiếp tục ô nhiễm như hiện nay thì một số loài động thực vật bị mất đi là không thể tránh khỏi. Ví dụ: biến đổi khí hậu gây ra hiện tượng El nino gây khô hạn kéo dài làm cạn kiệt nguồn nước, cháy rừng, nhiều loài động thực vật bị chết, ; Có thể thấy ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người. Với thực trạng môi trường không khí ở Việt Nam tiếp tục bị ô nhiễm với chiều hướng gia tăng như trên, vấn đề cần thiết đặt ra là phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không khí Khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Hiện nay, trên thế giới và cả Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm soát. Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa 2007: Kiểm soát là kiểm xét, coi sóc [127,381]. Có thể thấy kiểm soát theo cách hiểu này còn quá chung chung. Còn Từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006 thì: kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định hay kiểm soát là kiểm tra, rà soát để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Theo quan điểm trên thì kiểm soát thường gắn với sự vận động bất thường khi có vi phạm xảy thì đặt ra vấn đề phải kiểm soát. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, kiểm soát ô nhiễm là một từ dùng 35

41 trong quản lý môi trường, bao gồm việc kiểm soát phát thải và chất thải vào không khí, nước và đất. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tục hoặc phát tán chất ô nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện pháp hiệu quả [11]. Có thể thấy quan điểm này hiểu kiểm soát ô nhiễm theo hướng chủ động hơn, bao gồm cả hoạt động phòng ngừa ô nhiễm. Ở mức độ chung nhất, tác giả cho rằng, kiểm soát là việc theo dõi, kiểm tra, giám sát nhằm nắm được sự việc đang diễn tiến thế nào, dự báo diễn tiến đến đâu, có đi đúng hướng không để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý, uốn nắn, điều chỉnh đưa vào trật tự, làm đúng, tốt và có hiệu quả hơn. Do vậy, kiểm soát không chỉ là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm mà kiểm soát được đặt ra theo các chiều hướng khác nhau và phải hướng đến hiệu quả của công việc, tức là hiểu được bản chất, nhằm vào cái chưa hài lòng, chưa tốt để thực hiện có hiệu quả. Có thể thấy kiểm soát vốn đời sống nó đã có, tuy nhiên mức độ ban đầu người ta kiểm soát hành vi vi phạm, tác giả đồng ý với những quan điểm cho rằng cần hiểu kiểm soát rộng hơn được không chỉ kiểm soát vi phạm mà còn là dự báo, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn nắm được hoạt động của nó và uốn nắn theo hướng nhất định (kiểm soát chủ động). Theo quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2011 thì, kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên. Còn Giáo trình Luật Môi trường của Đại học luật Hà Nội năm 2014 thì đồng ý với quan điểm được ghi nhận trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 khi cho rằng, kiểm soát ô nhiễm môi trường là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm (khoản 18 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2014) [97] [83 2]. Có thể thấy, khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong Giáo trình Luật Môi trường 2011 của Đại học Luật Hà Nội nhấn loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường dường như là mục tiêu của hoạt động kiểm soát; định nghĩa này đã xác định được các chủ thể có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhưng chưa làm rõ nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, Giáo trình Luật Môi trường năm 2014 thì quan niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường là một chu trình, coi phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm là nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, lại chưa xác định rõ chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường. Tác giả cho rằng cần phải xuất phát từ nội hàm của thuật ngữ kiểm 36

42 soát cũng như đặc trưng của ô nhiễm môi trường để đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Do vậy theo chúng tôi, kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng thể các hoạt động phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện, những tác động đến môi trường, hiện trạng môi trường, sự biến đổi của môi trường so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường; ngăn chặn; xử lý các tác động tiêu cực đến môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như các chủ thể khác nhằm đảm bảo cho môi trường được trong lành, sạch đẹp. Từ cách hiểu về kiểm soát, về môi trường không khí, theo tác giả: kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, cải tạo phục hồi hiện trạng môi trường không khí; xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Cũng phải khẳng định thêm rằng về lý thuyết, kiểm soát ô nhiễm môi trường là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm nhấn mạnh tính trách nhiệm của các chủ thể này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường và khi họ vi phạm/không thực hiện/thực hiện không hiệu quả thì phải chịu trách nhiệm pháp lý. Điều này góp phần đảm bảo công lý phải được thực thi bởi các chủ thể có chức trách, nhiệm vụ rõ ràng và tránh tạo nên quá nhiều hiệp sĩ đường phố mà về mặt pháp lý cũng như thực tiễn họ không đủ khả năng có thể thực hiện, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền thì việc nhấn mạnh trách nhiệm này là cần thiết. Bên cạnh đó, việc khẳng định trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường của Nhà nước, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải không có nghĩa là triệt tiêu quyền được bảo vệ môi trường, quyền tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí của cá nhân, tổ chức khác, thậm chí với trách nhiệm của mình nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện và ngày càng mở rộng hơn sự tham gia của cộng đồng, khơi dậy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Ví dụ: A có chứa nguồn thải độc hại thì về nguyên tắc A phải kiểm soát không để nguồn thải đó gây ô nhiễm môi trường. Nếu A làm nguồn thải đó thoát ra ngoài môi trường thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm kiểm soát, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của A. Còn nếu A gây thiệt hại cho B thì đương nhiên lúc này B có quyền yêu cầu A dừng ngay hành vi gây ô nhiễm, bồi thường thiệt hại và tố cáo nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hơn nữa, cộng đồng dân cư bị ảnh 37

43 hưởng do ô nhiễm môi trường không khí có quyền tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát, yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường, Đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Môi trường không khí là một bộ phận quan trọng của môi trường sống, nên kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng là một phần trong kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung. Tuy vậy, ngoài các đặc điểm chung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, như: về chủ thể kiểm soát, mục tiêu kiểm soát, phương thức kiểm soát,... thì so với môi trường đất, nước, môi trường không khí có nhiều điểm đặc biệt từ tính chất lý hóa đến vai trò, tầm quan trọng của không khí đối với mọi mặt của đời sống xã hội... Cụ thể: Thứ nhất, phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn. Môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nên khi môi trường không khí bị ô nhiễm thường rất khó bị phát hiện và để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí không hề đơn giản. Do vậy, phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngay từ nguồn thải, kiểm soát trước khi khí thải thoát ra ngoài môi trường không khí góp phần phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí; Thứ hai, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải có sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương, các vùng và giữa các quốc gia ở các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Như chúng ta biết, môi trường không khí khí không có biên giới và bao trùm toàn cầu, ô nhiễm môi trường không khí trong nhiều trường hợp không chỉ ảnh hưởng đến một khu vực nhất định mà ảnh hưởng đến cả quốc gia, khu vực, thậm chí toàn cầu. Ví dụ: các chất thải chứa các chất CFCs có thể gây mất cân bằng nhiệt trong bầu khí quyển trái đất làm trái đất nóng lên, là nguyên nhân chính dẫn đến biến đổi khí hậu. Hơn nữa, không giống như đất đai, nguồn nước hay tài nguyên thiên nhiên có thể phân chia được ranh giới, còn môi trường không khí lại không thể phân chia được giữa các đơn vị hành chính: tỉnh, huyện, xã, thậm chí là giữa các quốc gia với nhau. Điều đó cho thấy một xã, một huyện, một tỉnh, thậm chí một quốc gia không thể kiểm soát hiệu quả được ô nhiễm môi trường không khí mà cần phải có sự hợp tác giữa các quốc gia ở nhiều cấp độ khác nhau để có thể kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt ô nhiễm phóng xạ hạt nhân cũng như kiểm soát biến đổi khí hậu. Thứ ba, khẳng định trách nhiệm hàng đầu của nhà nước và các chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Bởi không khí nó không thuộc quyền sở hữu riêng của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào mà không khí thuộc sở hữu chung của tất cả mọi người. Do không gắn cụ thể quyền sở hữu với riêng cá nhân, tổ chức cụ thể nào nên việc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ít được quan tâm hơn các nguồn tài nguyên khác, dẫn tới hiện tượng cha chung không ai khóc. Do vậy trong kiểm soát ô 38

44 nhiễm môi trường không khí cần phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải. Thứ tư, nhấn mạnh ý nghĩa, giá trị về mặt sức khỏe, sinh tồn của môi trường không khí đối với con người trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đối với tài nguyên nước, tài nguyên đất,... giá trị về mặt kinh tế được thể hiện rõ ràng ngay lập tức nên con người rất quan tâm và tìm nhiều cách để bảo vệ, còn tài nguyên không khí mặc dù rất quan trọng nhưng không được biểu hiện rõ ràng ngay lập tức mà nó là giá trị lâu dài nên con người ít quan tâm bảo vệ nó. Do vậy để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí cần xác định bảo vệ giá trị sống còn của môi trường không khí với cuộc sống của con người. Thứ năm, tính chủ quan, bị động trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần. Do vậy vấn đề bảo vệ, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thường không được quan tâm kịp thời. Thứ sáu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Như đã trình bày phần trên không khí là một hỗn hợp các chất khí mà mắt thường chúng ta khó có thể nhìn thấy được và khi không khí bị ô nhiễm hay nhiễm độc nếu không có các thiết bị chuyên dụng để đo đạc, để xác định thì việc phát hiện là không hề dễ dàng và hậu quả xảy ra đối với môi trường và con người có thể sẽ rất lớn. Thậm chí do đặc thù của môi trường không khí việc sử dụng các thiết bị công nghệ để kiểm soát ô nhiễm cũng khác so với môi trường đất, nước. Chúng ta không thể kiểm tra chất lượng không khí bằng lấy các mẫu thử như nước hay đất mà phải thông qua hệ thống quan trắc môi trường không khí,... Do vậy, phải thông qua quan trắc tại chỗ để kiểm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và việc ứng dụng các thiết bị chuyên dụng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là tất yếu Phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí với bảo vệ môi trường không khí Dưới góc độ lịch sử pháp lý, thuật ngữ bảo vệ môi trường, trong đó gồm cả bảo vệ môi trường không khí đã được ghi nhận trong pháp luật nước ta tương đối sớm. Bắt đầu bằng những quy định mang tính hiến định tại Điều 36 của Hiến pháp năm 1980 với quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ và cải thiện môi trường sống, tiếp đó thuật ngữ này được ghi nhận nhiều trong Luật Bảo vệ Môi trường đầu tiên của Việt Nam năm 1993 và Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và đến nay là Luật Bảo vệ Môi trường năm Còn thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được ghi nhận muộn hơn. Theo cứ liệu thu thập được thì thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường ban đầu được sử dụng cho hoạt 39

45 động kiểm soát các sự cố môi trường, như sự cố tràn dầu, Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 chưa có quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Sau 12 năm từ khi Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 ra đời thì thuật ngữ này mới được ghi nhận trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005, như quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, môi trường nước trong lưu vực sông, và đặc biệt là quy định về kiểm soát bụi, khí thải (Điều 83). Vậy hai thuật ngữ này có điểm gì giống và khác nhau? Tác giả cho rằng đây là hai thuật có giao thoa với nhau, sự giao thoa thể hiện ở chỗ chúng đều nhấn tới vấn đề phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí và mục đích là giữ gìn môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những điểm khác biệt thể hiện ở những điểm sau: Một là, về khái niệm chung. Dưới giác độ pháp lý, bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành. Còn kiểm soát ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường không khí là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm. Hai là, về nội hàm. Bảo vệ môi trường không chỉ gồm những hoạt động phòng ngừa, hạn chế những tác động xấu đến môi trường, mà còn bao gồm các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học cũng như khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Còn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thì lại nhấn mạnh hơn và xoay quanh vào việc phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế, khắc phục ô nhiễm môi trường không khí. Qua đó có thể thấy, thuật ngữ bảo vệ môi trường có nội hàm rộng hơn, còn thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường chặt chẽ hơn, chuyên sâu hơn. Ba là, về chủ thể tham gia, bảo vệ môi trường là trách nhiệm, nghĩa vụ chung của tất cả mọi người và mọi cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức. Có thể khẳng định bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội. Còn kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí chủ yếu nhấn mạnh hơn đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, chủ thể có thẩm quyền và tổ chức, hộ gia đình cá nhân là các chủ nguồn thải. Điều này không có nghĩa là triệt tiêu quyền của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí gây ra mà họ vẫn có quyền tự yêu cầu chủ thể gây ra thiệt hại phải bồi thường,... Bốn là, về biện pháp thực hiện. Bảo vệ môi trường được thực hiện bằng việc áp dụng tổng thể các biện pháp khác nhau như: biện pháp chính trị, biện pháp tuyên truyền, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học công nghệ, biện pháp giáo dục và biện pháp pháp lý. Còn trong khi đó kiểm soát ô nhiễm môi trường chủ yếu dựa trên biện pháp pháp lý, 40

46 ngoài ra các các yếu tố thị trường và xã hội cũng ngày càng được sử dụng nhiều hơn, mãnh mẽ hơn để kiểm soát ô nhiễm môi trường. Năm là, về cơ sở pháp lý. Hoạt động bảo vệ môi trường được thực hiện dựa trên cơ sở các chính sách, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên. Còn hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí dựa chủ yếu vào quy chuẩn kỹ thuật môi trường để phòng ngừa, phát hiện ô nhiễm, mức độ ô nhiễm, sự biến đổi của hiện trạng môi trường không khí. Nếu có ô nhiễm môi trường không khí xảy ra thì điều chỉnh nó phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí. Sáu là, nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí nhấn mạnh đến phòng ngừa, giữ gìn bảo đảm hiện trạng môi trường không khí không bị ô nhiễm thì bảo vệ môi trường ngoài việc nhấn đến việc phòng ngừa, nó còn bao hàm cả vấn đề thúc đẩy phát triển, cải thiện môi trường Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không khí bằng pháp luật Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau, như: công cụ tuyên truyền, giáo dục; công cụ khoa học công nghệ; công cụ kinh tế, Tuy nhiên, các công cụ này khó kiểm soát được ô nhiễm môi trường một cách triệt để xuất phát từ bản chất của từng công cụ. Ví dụ: tuyên truyền, giáo dục. Đây là công cụ quan trọng để tác động vào tư tưởng của các chủ nguồn thải nhằm giúp họ nhận ra tầm quan trọng, ý nghĩa của môi trường không khí từ đó họ thay đổi hành vi của mình không có hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Nhưng thực tiễn cho thấy, ô nhiễm môi trường không khí đa phần do hành vi xả thải từ hoạt động kinh tế, đó là các doanh nghiệp, mà đứng đầu các doanh nghiệp thường là những người rất hiểu biết về về kinh tế cũng như môi trường không khí (họ hoàn toàn có thể ý thức được hoạt động của doanh nghiệp mình có gây ảnh hưởng xấu đến môi trường hay không, nhưng vì lợi ích của cá nhân mình hoặc một nhóm người họ vẫn xả khí thải độc hại chưa qua xử lý ra môi trường không khí. Do vậy, công cụ tuyên truyền giáo dục không thể giúp kiểm soát triệt để hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Còn sử dụng công cụ khoa học công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có nhiều ý nghĩa quan trọng, nhưng công nghệ hiện đại thường kéo theo chi phí bỏ ra cao hơn rất nhiều, trong bối cảnh Việt Nam còn nghèo thì không phải tổ chức, cá nhân nào cũng có thể có kinh phí để đầu tư được những dây chuyền công nghệ này để giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí. Về công cụ kinh tế, đây là công cụ rất quan trọng và ngày cảng được sử dụng nhiều để bảo bệ môi trường cũng như kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đặc trưng của công cụ này là dùng lợi ích kinh tế để tác động thay đổi hành vi của các chủ thể, như: giảm thuế, miễn thuế môi trường, thuế sử dụng đất, 41

47 tiền thuê đất, ưu đãi về vốn vay, thị trường, cấp nhãn hàng hóa thân thiện môi trường, cho các chủ thể nếu như các chủ thể này đầu tư vào lĩnh vực thân thiện với môi trường. Ví dụ: đầu tư xây dựng các dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM) hay cấp chứng chỉ ISO14000 hoặc SA 8000 với các doanh nghiệp đăng ký quản lý môi trường theo ISO Ngược lại nếu các chủ thể vẫn đầu tư vào lĩnh vực không thân thiện môi trường thì họ sẽ không được giảm thuế, miễn thuế, thậm chí bị đánh thuế cao, không được ưu đãi về vốn vay và thị trường, Đối với môi trường không khí thì doanh nghiệp được cấp hạn ngạch khí thải mà Nhà nước cấp cho doanh nghiệp trong 01 năm. Nếu như đã sử dụng hết hạn ngạch mà muốn sản xuất tiếp thì phải mua quyền phát thải của những doanh nghiệp còn chưa sử dụng hết hạn ngạch khí thải. Việc này giúp hình thành nên thị trường mua bán quyền phát thải được cấp, Mặc dù công cụ kinh tế đóng vai trò rất quan trọng trong bảo vệ môi trường cũng như trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và ngày càng được ưu tiên sử dụng rộng rãi, nhưng thực tiễn cho thấy vẫn có rất nhiều chủ thể vẫn đầu tư vào những lĩnh vực không thân thiện môi trường và gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường nên công cụ kinh tế vẫn không thể kiểm soát được triệt để vấn đề này. Hơn nữa, để sử dụng được công cụ kinh tế, thì công cụ này cũng phải được cụ thể hóa bằng pháp luật. Trong bối cảnh đó, công cụ pháp lý sẽ đóng vai trò đặc biệt trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Bởi thứ nhất, để thực hiện có hiệu quả các công cụ kinh tế, khoa học công nghệ, hay tuyên truyền giáo dục thì những công cụ này cũng phải được luật hóa để thực hiện; thứ hai, công cụ pháp lý sẽ quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Khi các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định pháp luật thì sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi, các chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có thể phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm kỷ luật; thứ ba, để kết hợp đồng bộ và sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế, công cụ tuyên truyền giáo dục, thì các công cụ này cũng phải được quy định vào trong các văn bản pháp luật Khái niệm, vai trò của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Từ năm 1986 đến nay, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế đã mang lại nhiều thành tựu cho đất nước cũng như nhiều lợi ích cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đối mặt với trái của quá trình phát triển như: vấn nạn ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí. Hơn nữa, Việt Nam đang trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền nên tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong 42

48 lành trở thành những giá trị mang tính hiến định quan trọng. Nếu ô nhiễm môi trường không khí xảy ra thì ảnh hưởng của nó khiến các giá trị trên không được bảo đảm. Do vậy, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, vấn đề đặt ra cần phải có công cụ thiết yếu thực hiện quá trình này, đó chính là công cụ pháp luật. Vậy pháp luật là gì? Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau, tùy theo hệ thống pháp luật, thậm chí ngay tại Việt Nam quan điểm về pháp luật cũng có cách hiểu không hẳn giống nhau. Cụ thể những nước theo hệ thống thông luật như Anh Mỹ, hiểu pháp luật là công lý, là lẽ phải, là sự công bằng. Còn những nước theo hệ thống pháp luật hồi giáo hiểu pháp luật không chỉ là những quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra mà các quy tắc xử sự của Đạo Hồi cũng được coi là chuẩn mực để thực hiện và đó là pháp luật. Những nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa hiểu pháp luật là những quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí của Nhà nước. Gần đây quan niệm về nguồn của pháp luật được hiểu rộng hơn, đó không chỉ là những quy định do Nhà nước ban hành mà những cái nhà nước không ban hành, nhưng được Nhà nước thừa nhận thì cũng coi là pháp luật. Ví dụ như các tập quán pháp. Pháp luật là yếu tố tĩnh được nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội là yếu tố động thường xuyên biến đổi và phát triển. Do vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật sẽ ngày càng được mở rộng. Điều này lý giải tại sao trước năm 1986 hầu như không có quy định pháp luật nào về bảo vệ môi trường. Từ 1986 trở đi, Nhà nước ta ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ này, như quy định về bảo vệ môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường 1993, quy định về kiểm soát ô nhiêm môi trường không khí trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 và đặc biệt là Luật Bảo vệ Môi trường năm Vậy pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là gì? Hiện nay, quan điểm về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm và những đặc thù của môi trường không khí tác giả cho rằng: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn; xử lý ô nhiễm môi trường không khí, đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. 43

49 Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung trong đó có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là rất quan trọng. Cụ thể: Vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Pháp luật có vai trò trọng trong đời sống xã hội, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, là phương tiện để nhà nước quản lý đời sống xã hội và cũng là phương tiện để người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật luôn tác động mạnh mẽ tới các quan hệ nói chung, sự tác động đó được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau và trong bảo vệ môi trường không khí, vai trò của pháp luật thể hiện ở các khía cạnh sau: - Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi tác động vào môi trường không khí. Môi trường không những là yếu tố quyết định đối với sự sống của con người mà còn là đối tượng tác động trong hoạt động của con người. Trong đời sống hàng ngày, con người tiến hành nhiều hoạt động tác động vào môi trường không khí, những tác động này có thể theo chiều hướng tốt hoặc xấu đối với chất lượng không khí. Ví dụ: hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt con người đã thải một lượng chất thải không nhỏ, đặc biệt là các chất thải nhà kính vào môi trường không khí gây biến đổi khí hậu toàn cầu và chính con người sẽ phải chịu hậu quả do hành vi hủy hoại môi trường của mình gây ra, như: thảm họa sóng thần trên Ấn Độ Dương năm 2004 làm hơn người chết; động đất Haiti; động đất, sóng thần ở Nhật Bản làm hàng chục nghìn người bị chết. Với tư cách là công cụ điều chỉnh các hành vi của con người trong xã hội, pháp luật có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai thác và sử dụng môi trường. Con người buộc phải sử dụng môi trường không khí theo hướng ít gây hại cho nó hơn, tức là phải hạn chế lượng các chất gây ô nhiễm, các chất độc hại khi thải vào môi trường không khí theo các cách thức mà pháp luật bảo vệ môi trường đã quy định. - Pháp luật quy định các chế tài để ràng buộc con người thực hiện những đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng môi trường không khí. Trong thực tế, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường thường không tự giác thực hiện hành vi bảo vệ môi trường không khí mà pháp luật đã quy định. Bởi vì trong bối cảnh kinh tế thị trường người ta quan tâm nhiều đến lợi ích, vì lợi ích cá nhân, hay lợi ích của một nhóm người, người ta sẵn sàng hy sinh những lợi ích chung của toàn xã hội. Họ sẵn sàng bỏ qua các nghĩa vụ đối với môi trường mà lẽ ra họ phải thực hiện vì không muốn bỏ thêm chi phí gây ảnh hưởng đến lợi nhuận. Cũng chính điều đó các chủ thể luôn tìm cách để lẩn trốn nghĩa vụ pháp lý đối với môi trường. Lúc đó, các chế tài hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật của pháp luật môi trường trở lên rất quan trọng. Các chế tài đó nhằm bảo 44

50 vệ lợi ích chính đáng của mọi tổ chức, cá nhân thông qua việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Qua việc xử lý này cũng răn đe các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường khiến họ phải tự giác tuân theo các quy định của pháp luật môi trường, ngăn ngừa, hạn chế những hình vi tác động xấu đến môi trường không khí. - Pháp luật bên cạnh việc định hướng hành vi xử sự cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi tác động vào môi trường không khí, còn có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động hiệu quả cho các cơ quan, tổ chức bảo vệ môi trường không khí. Thông qua pháp luật, nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí như: xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí; định kỳ đánh giá và dự báo diễn biến tình hình môi trường không khí; cấp giấy phép về môi trường cho các cơ sở công nghiệp; cấp, gia hạn và thu hồi giấy chứng nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Bảo vệ môi trường không khí cần phải thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trước tiên cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí với các cơ quan chuyên môn quản lý các thành phần môi khác. Môi trường bao gồm nhiều thành phần khác nhau và giữa các thành phần đó có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Môi trường không khí chỉ bảo vệ khi có tính đến sự bền vững của các thành phần môi trường khác. Pháp luật môi trường, bằng việc xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên ngành trong bảo vệ môi trường sẽ gắn kết được các mối quan hệ liên ngành đó để bảo vệ môi trường không khí một cách hiệu quả. Mặt khác, bằng các quy phạm pháp luật của mình, pháp luật môi trường sẽ xác định rõ thẩm quyền cũng như chức năng nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp. Khi tranh chấp được giải quyết thì những tác động xấu tới môi trường không khí do hành vi vi phạm của một bên tranh chấp gây ra sẽ được phục hồi và quyền lợi hợp pháp của công dân cũng được đảm bảo. Vì vậy, với việc quy định chức năng của các cơ quan giải quyết tranh chấp môi trường, pháp luật môi trường đã thể hiện rất rõ vai trò không thể thiếu của mình trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. - Bảo vệ môi trường ngày nay không còn là vấn đề của riêng quốc gia nào. Bảo vệ môi trường là yếu tố gắn kết các quốc gia với nhau. Vì vậy pháp luật tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Với đặc trưng không xác định biên giới của mình, các vấn đề môi trường thường đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác với nhau cùng giải quyết. Người ta không thể gom riêng không khí đã bị ô nhiễm ra để xử lý được. Vì vậy trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí mối quan hệ giữa các quốc 45

51 gia càng trở lên hết sức cần thiết. Sự hợp tác này giữa các quốc gia sẽ tạo ra rất nhiều lợi thế trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường. Ví dụ: qua hợp tác các quốc gia sẽ cùng nhau, phối hợp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Hợp tác chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; đặc biệt là chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy vậy để sự hợp tác này được diễn ra suôn sẻ, thuận lợi các quốc gia cần phải thỏa thuận xây dựng hoàn thiện khung pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm không khí. Pháp luật là cơ sở vững chắc để kết nối sự hợp tác này trở nên có hiệu quả và thiết thực hơn.[119] Thực tiễn phát triển cho thấy ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng là không tránh khỏi, sự phát triển có thể nói là nhanh một cách khá tùy tiện, thiếu chiến lược bền vững; phong trào công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sức ép của lợi nhuận, tiết giảm chi phí và lối sống tùy tiện của văn hóa tiểu nông, đặc biệt động lực lợi nhuận đã thúc đẩy các chủ thể khai thác vô kế hoạch và không thương tiếc các tài nguyên thiên nhiên, trốn tránh việc xử lý hợp lý các khí thải độc hại;... Ví dụ một số nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao đã vào Việt Nam do các quốc gia khác không chấp nhận. Điều đó đã tàn phá môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Các quy định Hiến pháp, Luật Bảo vệ môi trường các văn bản khác sẽ giúp nhà nước kiểm soát việc khai thác, sử dụng tài nguyên không khí nhằm ngăn chặn và hạn chế tình trạng tàn phá và gây ô nhiễm môi trường không khí Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Tuyên bố về môi trường con người năm 1972 tại Stockhom, Thụy Điển và được củng cố trong Tuyên bố về môi trường và phát triển năm 1992 tại Rio de Janeiro, Braxin. Ở Việt Nam, quyền được sống trong môi trường trong lành được nhắc đến trong Lời nói đầu của Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 và lần đầu tiên được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 và chính thức trở thành nguyên tắc của Luật bảo vệ Môi trường năm Thực tế cho thấy ở Việt Nam quyền được sống trong môi trường trong lành bị đe dọa chủ yếu bởi ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy, ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay là cấp thiết và hợp lý. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: - Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; 46

52 - Các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải phải thực hiện phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn các nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí do mình thải ra; - Các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí xâm phạm đến quyền được sống trong môi trường trong lành phải bị xử lý theo Hiến pháp và theo pháp luật; - Khi các chủ thể bị xâm phạm quyền này thì có thể khởi kiện ra Tòa hoặc cơ quan quản lý nhà nước để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình theo trình tự, thủ tục luật định. - Nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững Phát triển bền vững là sự phát triển của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí là một trụ cột cấu thành phát triển bền vững. Do vậy, chỉ có thể có phát triển bền vững khi kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả đồng thời từ đó sẽ thúc đẩy phát triển xã hội. Bởi để phát triển bền vững cần phải đưa yếu tố môi trường vào trong quá trình phát triển để đảm bảo quá trình phát triển kinh tế sẽ không gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong đó có môi trường không khí. Ngược lại phát triển bền vững cũng góp phần vào quá trình bảo vệ môi trường trong đó có kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Phát triển bền vững bên cạnh việc quan tâm đến bảo vệ môi trường chủ động thì nó còn tạo ra các nguồn lực để thúc đẩy phát triển môi trường bền vững. Do vậy kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng cần dựa trên nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững. - Nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Như chúng ta biết môi trường không khí với tính đặc thù cố hữu đó là tính khuếch tán, tính lan truyền nên tác động của ô nhiễm môi trường không khí mang tính bao trùm, thiệt hại xảy ra thường lớn đến nhiều tổ chức, cá nhân. Do vậy để kiểm soát được thiệt hại do ô nhiễm môi trường không không khí thì không chỉ có sự tham gia của Nhà nước mà còn có sự tham gia của mọi tổ chức, cá nhân. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự tham gia của cả cộng đồng hoặc đại diện cộng đồng, các tổ chức đoàn thể xã hội vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. - Nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn. Nguyên tắc này được ghi nhận xuất phát từ một đặc điểm rất quan trọng của môi trường không khí đó là tính khuếch tán, lan truyền nên khi có hành vi xả thải chất gây ô nhiễm (khí thải) ra môi trường không khí việc xác định mức độ ô nhiễm cũng như thiệt hại cho môi trường không khí là rất khó khăn. Cách hiệu quả nhất để môi trường không khí không/hạn chế ô nhiễm là kiểm soát ngay tại nguồn thải. Do vậy, để nâng cao hiệu quả trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, việc xây dựng pháp luật về vấn đề này cần phải dựa trên 47

53 nguyên tắc đặc thù nhưng rất quan trọng đó là kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngay tại nguồn thải. - Nguyên tắcđiều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí theo hướng tác động tới chi phí và lợi ích để các chủ thể tự nguyện lựa chọn tuân thủ pháp luật. Theo thống kê năm 2013 của Ngân hàng thế giới phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, Việt Nam thuộc nhóm nước dẫn đầu thế giới về xây dựng pháp luật nhưng lại thuộc nhóm nước yếu kém nhất thế giới về thực thi pháp luật. Sở dĩ việc thực thi pháp luật và tuân thủ pháp luật ở Việt Nam kém có nhiều nguyên nhân, ngoài những nguyên nhân nằm ở khâu tổ chức thực hiện thì có nguyên nhân về xây dựng pháp luật. Đặc biệt là tư duy về xây dựng chính sách pháp luật của Việt Nam có vấn đề gần như thông suốt đó là tư duy cái gì không quản lý được thì cấm. Ví dụ: trước đây có lần cơ quan nhà nước có thẩm quyền định cấm kinh doanh karaoke vì cho rằng có đó là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội, hay tư duy hạn chế nhập khẩu ô tô để để tránh tắc đường. Trong khi đó các nước như Inđônêxia, Malaysia, thì cho nhập khẩu ô tô để đảm bảo quyền hợp pháp của người dân và để nhà quản lý có tầm nhìn về quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông, Với tư duy đó việc xây dựng pháp luật của ở Việt Nam, đa phần các lĩnh vực dựa trên các quy định cấm để quản lý, nhưng vẫn bị vi phạm, pháp luật môi trường cũng vậy. Ví dụ: Luật Thủy sản quy định về cấm đánh bắt cá có kích cỡ nhỏ, cấm dùng các phương tiện đánh bắt như mìn, kích điện, hay lưới đánh bắt phải đảm bảo kích cỡ mắt lưới đánh bắt phải đạt tiêu chuẩn luật định, Tuy nhiên, thực tế người dân vẫn sử dụng các dụng cụ này mà không kiểm soát được, thậm chí cá đánh bắt được không đạt chuẩn do các các công cụ bất hợp pháp này vẫn được bày bán công khai mà không bị cơ quan nào đứng ra xử lý, Do vậy, tác giả cho rằng đã đến lúc xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng cần phải tính đến yếu tố chi phí và lợi ích khi xây dựng pháp luật, theo đó quy định theo hướng chủ thể lựa chọn tuân thủ pháp luật sẽ đạt được lợi ích cao hơn so với việc không tuân thủ/vi phạm pháp luật. - Nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm pháp lý. Người gây ô nhiễm môi trường không khí không chỉ phải bồi thường thiệt hại môi trường mà còn phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan, như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật. - Nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường không khí. Môi trường không khí mang tính bao trùm toàn cầu, nó không có ranh giới. Do vậy, một quốc gia không thể đơn phương mà kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí. Hơn nữa, ô nhiễm môi trường không khí thường rất phức tạp, khó xác định thiệt hại. Do vậy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế sẽ giúp các quốc gia có thể hỗ trợ cho nhau về vốn, về công 48

54 nghệ, về kinh nghiệm tạo nên tính đồng bộ, tính hệ thống góp phần kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Như đã phân tích ở trên, pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có hiệu quả, pháp luật ngoài việc xác định rõ chủ thể, nội dung và cách thức, trình tự, thủ tục kiểm soát ô nhiễm, thì cần phải phân chia hiện trạng môi trường không khí thành những giai đoạn khác nhau để có sự điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với từng giai đoạn. Theo đó hiện trạng môi trường không khí được chia thành ba giai đoạn: một là, giai đoạn môi trường không khí chưa bị ô nhiễm (tiền ô nhiễm), hai là, giai đoạn môi trường không khí đang bị ô nhiễm (ở giai đoạn này hiện trạng môi trường không khí có thể diễn ra trường hợp có nơi thì môi trường không khí bị ô nhiễm, có nơi lại chưa bị ô nhiễm, ); thứ ba, là giai đoạn hậu ô nhiễm (xử lý ô nhiễm, phục hồi, cải thiện môi trường không khí). - Ở giai đoạn đầu, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đặt ra vấn đề là phải phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí. Phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí là các hoạt động ngăn ngừa, phòng trước những nguyên nhân có thể gây ô nhiễm môi trường không khí, những tác động tiêu cực đến môi trường không khí nhằm giữ hiện trạng môi trường không khí ổn định phù hợp với quy chuẩn môi trường không khí. Còn dự báo là một khoa học và nghệ thuật tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai, trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu đã thu thập được. Khi tiến hành dự báo cần căn cứ vào việc thu thập, xử lý số liệu trong quá khứ và hiện tại để xác định xu hướng vận động của các hiện tượng trong tương lai nhờ vào một số mô hình toán học (Định lượng). Tuy nhiên, dự báo cũng có thể là một dự đoán chủ quan hoặc trực giác về tương lai (định tính) và để dự báo định tính được chính xác hơn, người ta cố loại trừ những tính chủ quan của người dự báo[63]. Dự báo về hiện trạng môi trường không khí là một nội dung rất quan trọng của kiểm soát ô nhiễm môi trường, giúp cho việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường được chủ động hơn, kịp thời hơn và giảm được những tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường xuống mức thấp nhất. Do vậy có thể thấy muốn ngăn ngừa, phòng trước những tác động xấu đến môi trường không khí, giữ cho hiện trạng môi trường không khí không bị biến đổi theo chiều hướng xấu, phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí thì việc phòng ngừa, dự báo là một nội dung đặc biệt quan trọng trong điều chỉnh pháp luật giai đoạn tiền ô nhiễm môi trường không khí. Đặc biệt quá trình này phải gắn với việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn. Có thể thấy phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí được đặt ra trong tất cả các giai đoạn từ tiền ô nhiễm, giai đoạn môi trường không khí bị ô nhiễm, cho đến hậu ô nhiễm. Tuy nhiên, với mỗi giai đoạn mục tiêu của việc phòng ngừa cũng không 49

55 hẳn có sự giống như nhau. Trong giai đoạn môi trường không khí chưa bị ô nhiễm mục tiêu của phòng ngừa và dự báo đặc biệt phải được đề cao nhằm ngăn ngừa, phòng trước những nguy cơ có thể làm ô nhiễm môi trường không khí. Ở giai đoạn môi trường đã bị ô nhiễm thì phòng ngừa, dự báo lại hướng tới mục tiêu giới hạn khu vực bị ô nhiễm không mở rộng thêm, không lan sang khu vực khác. Còn giai đoạn xử lý xong ô nhiễm thì phòng ngừa lại tiếp tục được đặt ra. Nội dung điều chỉnh pháp luật về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí gồm các quy định, như: quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá ĐMC, ĐTM, và KBM, quan trắc hiện trạng môi trường, thông tin về tình hình môi trường; kiểm kê khí thải, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí ; - Ở giai đoạn môi trường đã bị ô nhiễm thì phòng ngừa, dự báo vẫn được đặt ra nhằm giới hạn khu vực bị ô nhiễm không mở rộng thêm, không lan sang khu vực khác. Tuy nhiên, giai đoạn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí hướng tới việc nhanh chóng phát hiện ra ô nhiễm môi trường, khoanh vùng ô nhiễm, ngăn chặn ô nhiễm môi trường,.. Bên cạnh đó, thông tin về chủ thể gây ô nhiễm môi trường không khí, tình hình ô nhiễm môi trường không khí và tác động của nó đến các chủ thể bị ảnh hưởng được biết có ý nghĩa đặc biệt nghiêm trọng. Hoạt động theo dõi, thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, hộ gia đình cá nhân và các chủ thể khác trong kiểm tra, giám sát, phát hiện các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí nhằm hạn chế, giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí. Ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí là tổng hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong việc giữ không cho ô nhiễm môi trường không khí lan rộng ra. Hoạt động ngăn chặn ô nhiễm được thực hiện khi phát hiện có ô nhiễm môi trường không khí. Bao gồm: giám sát hiện trạng môi trường không khí, khoanh vùng ô nhiễm, giảm thiểu ô nhiễm, hạn chế, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong giai đoạn môi trường đã bị ô nhiễm sẽ tập trung vào các quy định, như: quy định về quan trắc hiện trạng môi trường không khí, thanh tra hoạt động của các chủ thể có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí, thông tin về tình hình môi trường không khí, dự báo biến đổi của môi trường không khí, khoanh vùng, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí và trách nhiệm của các chủ thể trong phát hiện, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí. - Ở giai đoạn hậu ô nhiễm vấn đề đặt ra là xử lý ô nhiễm môi trường không khí. Xử lý ô nhiễm môi trường không khí là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm 50

56 quyển, các chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong khắc phục ô nhiễm, khôi phục hiện trạng, cải thiện chất lượng môi trường không khí và xử lý các hành làm ô nhiễm môi trường không khí. Điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đặt ra vấn đề cần phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường không khí, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh đó, tiếp tục đặt ra vấn đề là phải phòng ngừa dự báo hiện trạng môi trường không khí; Có thể thấy, mặc dù không khí rất quan trọng với cuộc sống của con người, nhưng nhận thức của người dân về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn chưa đầy đủ. Rất nhiều các cơ sở công nghiệp, các làng nghề, các hộ gia đình, cá nhân thường chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế của mình mà quên đi bảo vệ môi trường không khí cho cả cộng đồng. Trên cơ sở hiện trạng môi trường không khí được phân chia thành các giai đoạn để kiểm soát. Trong suốt quá trình đó, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần quy định rõ những vấn đề sau: Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần xác định được nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm những hoạt động gì? Tác giả cho rằng nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm các hoạt động: phòng ngừa ô nhiễm môi trường; dự báo sự biến đổi của môi trường không khí; thanh tra, kiểm gia, giám sát phát hiện ô nhiễm, mức độ ô nhiễm môi trường không khí dựa trên quy chuẩn kỹ thuật môi trường; khi phát hiện có ô nhiễm môi trường không khi thì ngăn chặn; xử lý ô nhiễm trường không khí. Thứ hai, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải xác định và quy định rõ các chủ thể nào có trách nhiệm, nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tác giả cho rằng trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thuộc về cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác. Trách nhiệm đầu tiên trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thuộc về về các cơ quan nhà nước, tổ chức cá nhân chủ nguồn thải, bởi cơ quan nhà nước được thành lập ra được trang bị đầy đủ các cơ sở để thực hiện việc kiểm soát này và các tổ chức cá nhân chủ nguồn thải cũng phải có nghĩa vụ đầu tiên trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí bởi họ có chưa đựng nguồn thải gây ô nhiễm (họ phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình). Bên cạnh đó, các chủ thể khác mặc dù không có trách nhiệm chính trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình này, đặc biệt trong bối cảnh sự thiếu thượng tôn pháp luật môi trường của các chủ nguồn thải, sự vô cảm của một số các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường thì vai trò của cộng đồng dân cư, của các tổ chức xã hội, là rất quan trọng. 51

57 Thứ ba, về đối tượng bị kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đó chính là hành vi của các chủ thể, như: cá nhân, tổ chức, hộ gia đình; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thứ tư, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần xác định rõ chu trình, trình tự, thủ tục, công cụ, phương tiện kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đó là các quy định về phòng ngừa, dự báo, thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí và xử lý ô nhiễm môi trường không khí; Thứ năm, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm trường không khí cần xác định được rõ mục tiêu của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là gì. Theo tác giả mục tiêu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền được sống trong môi trường được trong lành. Để làm sáng tỏ những vấn đề trên, tác giả cho rằng nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần tập trung vào các nội dung sau: - Pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí và tiêu chuẩn môi trường không khí - Pháp luật về phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, dự báo những tác động đến môi trường không khí và sự biến đổi của môi trường không khí; - Pháp luật về thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí; - Pháp luật về ngăn chặn ô nhiễm môi trường; - Pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường không khí; - Tổ chức và hoạt động của các quan nhà nước có thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; Yêu cầu đối với điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Là một phần của hệ thống pháp luật Việt Nam, do vậy việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đáp ứng những tiêu chí chung trong xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, như: tính hoàn thiện, tính thống nhất, tính đồng bộ, tính khả thi, tính hiệu quả, tính công khai, minh bạch dễ hiểu, dễ tiếp cận, tính chi phí thực hiện thấp. Bên cạnh những tiêu chí chung của hệ thống pháp luật, căn cứ vào đặc thù của môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí, tác giả cho rằng việc xây dựng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đạt được các tiêu chí sau: - Một là, tính dự báo, cảnh báo. Môi trường không khí mang tính bao trùm, và ô nhiễm môi trường không khí thì biến đổi khó lường do vậy việc dự báo chính xác sự 52

58 biến đổi của môi trường không khí và cảnh báo những tác động do ô nhiễm môi trường không khí đến con người và sinh vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để thực hiện được vấn đề này thì luật hóa hoạt động dự báo, cảnh báo này vào trong luật. Việc xây dựng hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đảm bảo tính cảnh báo và dự báo sẽ là cơ sở để các quốc gia, các tổ chức, các cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân chủ động hơn trong phòng ngừa, hạn chế, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí, giảm thiểu được những thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí gây ra. - Tính phòng ngừa được rủi ro phát sinh. Do ô nhiễm môi trường không khí mang tính bao trùm nên khi thiệt hại xảy ra thường với phạm vi và quy mô rất lớn. Ví dụ: rò rỉ chất phóng xạ hạt nhân ở nhà máy điện Fukushima đã làm chất phóng xạ lan ra phạm vi rộng hàng chục km xung quanh nhà máy, thậm chí là hàng trăm km[49]. Giải pháp tốt nhất để hạn chế, ngăn chặn, giảm thiểu được những thiệt hại này là phòng ngừa tại nguồn (phòng ngừa trước khi ô nhiễm môi trường không khí xảy ra) có vai trò đặc biệt quan trọng. Do vậy, điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần hướng tới những quy định đồng bộ về phòng trước, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường không khí, phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí gây ra. - Tính nhanh chóng, kịp thời. Ô nhiễm môi trường không khí thường diễn ra rất nhanh trên quy mô và phạm vi lớn do vậy nếu không có sự nhanh chóng trong ngăn chặn nguồn thải gây ô nhiễm thì phạm vi ô nhiễm sẽ gia tăng. Mặt khác chính do tính khuếch tán nhanh của môi trường không khí, nhiều chủ thể đã lợi dụng điều này để chuộc lợi cá nhân nhằm tránh không bị phát hiện. Ví dụ: xả khí thải ô nhiễm chui vào ban đêm đến sáng thì không còn ô nhiễm nữa. Do vậy điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần theo hướng phát huy tính nhanh chóng, kịp thời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ nguồn thải trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường, phát hiện ô nhiễm môi trường, ngăn chặn ô nhiễm môi trường và xử lý ô nhiễm môi trường của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cũng như các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình chủ nguồn thải. Sự nhanh chóng kịp thời này sẽ góp phần rất lớn hạn chế rủi ro, thiệt hại xảy ra. - Tính cộng đồng trách nhiệm. Như chúng ta biết môi trường không khí mang tính bao trùm, mặc dù có giá trị lớn trong đảm bảo sự sinh tồn của con người và sinh vật, nhưng việc xác định được giá trị của nó không hề dễ dàng như môi trường đất, môi trường nước. Hơn nữa, môi trường không khí không phải thuộc sở hữu của riêng một ai mà là của mọi người, các cộng đồng dân cư, các quốc gia và cả nhân loại. Do vậy cả cộng đồng hay nói cách khác là tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường không khí. Hơn nữa như đã trình bày ở trên thiệt hại do ô nhiễm môi trường 53

59 không khí thường xảy ra với nhiều người, thậm chí là nhiều cộng đồng dân cư. Do vậy điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhấn đến tính cộng đồng trách nhiệm sẽ góp phần quan trọng vào quá trình giải quyết tranh chấp môi trường, trong đó có môi trường không khí. - Tính liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế. Trái đất là ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia và ngôi nhà này được bao bọc, bảo vệ bởi bầu khí quyển trái đất, môi trường không khí. Do vậy, ô nhiễm môi trường không khí ở một quốc gia có thể lan sang làm ô nhiễm môi trường không khí của quốc gia khác, hay một quốc gia không có hành vi làm ô nhiễm môi trường nhưng môi trường không khí vẫn bị ô nhiễm. không phân biệt quốc gia, khoảng cách địa lý, tài nguyên, dân số, hay không, nên một quốc gi bị ô nhiễm có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Ví dụ: khói bụi do cháy rừng ở Inđônêxia có thể lan sang cả Malaysia và Singapo hoặc ô nhiễm phóng xạ hạt nhân do rò rỉ từ nhà máy điện Fukushima tạo thành các đám mây phóng xạ, theo gió có thể di chuyển đến nhiều quốc gia, thậm chí việc thải các chất nhà kính còn gây lên hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn tới hiện tượng nước biển dâng và hiện tượng thời tiết bất thường khác gây ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Hậu quả của ô nhiễm môi trường không khí xảy ra thường ảnh hưởng rất lớn đến con người, sinh vật và hệ sinh thái tự nhiên gây mất cân bằng hệ sinh thái. Những biến đổi bất thường của môi trường không khí và hậu quả của nó đến nay vẫn chưa thể lường hết được. Nhiều hiện tượng tự nhiên bất thường từ ô nhiễm môi trường không khí con người cũng chưa thể kiểm soát, chế ngự được hoàn toàn nên nếu không được cảnh báo, dự báo trước thì thiệt hại xảy ra là rất lớn Ô nhiễm môi trường không khí mang tính toàn cầu, ô nhiễm môi trường không khí rất phức tạp một quốc gia không thể có đủ khả năng về công nghệ, tài chính, kinh nghiệm để tự giải giải quyết được. Hơn nữa, nếu có giải quyết được thì cũng không thể triệt để nếu không có sự tham gia, hợp tác của nước khác Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong các công ước quốc tế Những năm gần đây ô nhiễm môi trường không khí trở thành vấn đề nghiêm trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđonêxia, Việt Nam, Đứng trước các vấn nạn ô nhiễm môi trường không khí các quốc gia đều ban hành hệ thống pháp luật riêng của quốc gia mình để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nhưng thực tiễn cho thấy vấn đề ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt ô nhiễm môi trường không khí tầm xa là vấn đề không của riêng quốc gia nào, nó liên quan đến toàn cầu nên bên cạnh các quốc gia riêng lẻ, thì cần phải có sự hợp tác quốc tế trong xây dựng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy, hệ thống các quy định quốc tế về kiểm soát ô 54

60 nhiễm môi trường không khí được xây dựng ở nhiều cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu, và có kiểm soát ô nhiễm bầu khí quyển (tầm gần) và kiểm soát ô nhiễm tầm xa (ô nhiễm tầng ozôn). Trong khuôn khổ có hạn của luận án, có thể liệt kê một số văn bản pháp lý quốc tế sau: Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa, Thụy Sĩ 1979; Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã được chấp nhận vào 9/5/1992 tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New York; Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967; Công ước của Liên Hợp quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994); Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ, 1986, IAEA (29/9/1987); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1994); Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ hejchúng (13/5/1995); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về An toàn hạt nhân ngày năm 1994; Công ước chung về an toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ năm 1997; Hiệp định về chống ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN, tháng 6 năm 2002,... Những điều ước quốc tế này chủ yếu hướng vào kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa, chủ động ứng phó vơí biến đổi khí hậu. Cụ thể: Như chúng ta đã biết, tầng ozon có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ sự sống trên trái đất. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua tầng ôzôn của chúng ta ngày càng bị suy giảm rõ rệt gây thủng tầng ozon mà nguyên nhân chủ yếu do các chất làm suy giảm tầng ozôn gây ra. Chất làm suy giảm ôzôn chính là CFC (cacbon- flo- clo), không tự phát sinh mà chủ yếu được tạo bởi các hoạt động của con người. Tầng ôzôn bị suy yếu dẫn tới tỷ lệ bệnh tật của con người tăng lên rõ rệt và ảnh hưởng tiềm tàng tới việc thay đổi của các điều kiện khí hậu. Vì vậy, các quốc gia đã cùng nhau ký kết nhiều văn bản thỏa thuận liên quan đến vấn đề này có thể liệt kê: Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa 1979 Nghiên cứu các điều ước quốc tế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có thể thấy các quốc gia Châu Âu là khu vực đi đầu trong việc xây dựng các cam kết quốc tế. Bắt đầu cho sự kiện này là ngày 13 tháng 11 năm 1979, các quốc gia thuộc cộng đồng Châu Âu, cùng với hai nước Mỹ và Canada đã thông qua Công ước Geneva và ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa. Công ước có hiệu lực năm Hiện nay, có hơn 30 quốc gia ở Tây và Đông Âu tham gia, kể cả Liên bang Nga [90, 34]. Qua nghiên cứu Công ước này có thể thấy: 55

61 Một là, đây được coi như là thỏa thuận khu vực quan trọng nhất quy định việc kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa trong bầu khí quyển châu Âu và Bắc Mỹ. Theo Công ước thì môi trường không khí được coi như là một nguồn tài nguyên dùng chung và bắt buộc các quốc gia phải có sự hợp tác xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm cũng như những tiêu chuẩn phát thải chung. Hai là, Công ước chỉ rõ ô nhiễm không khí tầm xa là loại ô nhiễm ảnh hưởng đến một khoảng cách mà khó có thể phân biệt được những nguồn phát thải riêng biệt hay những nhóm nguồn gây ô nhiễm (Điều 1, b Công ước). Ba là, Công ước không chỉ giới hạn ở những ảnh hưởng có hại của ô nhiễm môi trường không khí tầm xa đến sức khỏe hoặc tài sản của con người mà còn quy định rộng hơn, thậm chí rộng hơn cả những quy định trong các thỏa ước về ô nhiễm môi trường biển, bao gồm tổn hại đến nguồn sinh vật, hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng và việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên môi trường (Điều 1, a Công ước). Bốn là, Công ước đã xác định nghĩa vụ các quốc gia trao đổi thông tin, nghiên cứu và thảo luận về chính sách, chiến lược và các biện pháp nhằm cắt, giảm ô nhiễm không khí (Điều 3, Điều 4, Điều 5 và Điều 8 Công ước); Năm là, mục tiêu của Công ước là ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, từ bất kể nguồn gây ô nhiễm nào từ các quốc gia thành viên. Mặc dù vậy, Công ước không quy định bất kỳ một nghĩa vụ cụ thể nào về việc cắt giảm các nguồn ô nhiễm không khí, mà các bên chỉ cam kết xây dựng một chính sách kiểm soát ô nhiễm, trên cơ sở những nguyên tắc và mục tiêu chung. Ví dụ: nghĩa vụ nỗ lực hạn chế và dần dần cắt giảm và ngăn ngừa ô nhiễm không khí (Điều 2). Vì vậy, các quốc gia có toàn quyền quyết định mức độ nỗ lực kiểm soát ô nhiễm của họ, cũng như chi phí họ sẵn lòng bỏ ra cho toàn bộ quá trình phát triển kinh tế. Hơn nữa, Công ước này cũng không quy định trách nhiệm đối với tổn hại do ô nhiễm không khí gây ra. Sáu là, Công ước Geneva quy định về nghĩa vụ thông báo và thảo luận trong trường hợp có những rủi ro nghiêm trọng có thể dẫn đến ô nhiễm tầm xa. Quy định này chỉ được áp dụng đối với những thay đổi chủ yếu trong chính sách hoặc sự phát triển công nghiệp có khả năng gây ra những thay đổi đáng kể về ô nhiễm không khí tầm xa, khi đó các quốc gia mới có nghĩa vụ thông báo cho các quốc gia khác. Nếu không, việc thảo luận chỉ được tổ chức do yêu cầu của các bên thực sự bị ảnh hưởng hoặc có khả năng bị một rủi ro đáng kể về ô nhiễm không khí tầm xa (Điều 5). Có nghĩa là cơ chế thảo luận không hiệu quả bằng những Công ước liên quan đến đánh giá tác động môi trường (nghĩa vụ tổ chức thảo luận ngay từ khi đề xuất dự án sau khi đã thông báo cho tất cả các bên có khả năng chịu tổn hại từ hoạt động phát triển để họ có thể tham gia). 56

62 Về cơ bản, có thể thấy Công ước Geneva đã xây dựng được một khung pháp lý cho sự hợp tác và tạo tiền đề cho việc phát triển những biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Thực tiễn những năm qua các quốc gia thành viên của Công ước này đều có sự nhất trí về ảnh hưởng tích cực của Công ước đối với việc kiểm soát ô nhiễm không khí và quản lý chất lượng không khí trong khu vực, thể hiện ở những hành động của các quốc gia để cải thiện môi trường không khí, giảm tỷ lệ phát thải ô nhiễm, và phát triển công nghệ. Ở một mức độ nào đó, Công ước được xem là một thành công đáng khích lệ, đặc biệt đối với việc làm thay đổi chính sách trong Cộng đồng châu Âu và thúc đẩy mối quan tâm của công chúng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, Công ước Geneva chỉ có giá trị ràng buộc với một số quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ, trong khi đó vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới đang đe dọa sự tồn tại của cả nhân loại. Do đó, ở mức độ toàn cầu, cơ sở để xác định trách nhiệm đối với hành vi gây ô nhiễm không khí tầm xa vẫn là nghĩa vụ tập quán quốc tế và các điều ước quốc tế khác có sự tham gia nhiều hơn của các quốc gia trên thế giới [40]. Bên cạnh Công ước Geneva 1979 về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa năm 1991, Châu Âu cũng đã thông qua Hiến chương năng lượng Châu Âu. Hiến chương này đã được 46 quốc gia ký tại The Hague (Hà Lan), thành viên ký kết gồm các nước Tây và Đông Âu, Mỹ, Nhật, Canada, Úc mục đích của Hiến chương là tạo nền tảng vững chắt cho sự hợp tác khắng khít hơn nữa giữa các nước liên quan về công nghiệp năng lượng, về sản xuất, phấn phối và tiêu thụ năng lượng, cũng như việc hạn chế ô nhiễm vào môi trường không khí. Qua đó có thể khẳng định châu Âu là khu vực đi đầu trong hoàn thiện thể chế pháp lý khu vực cho kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Công ước Vienna 1985 về bảo vệ tầng ozone Vào những năm 80 của thế kỷ XX, do việc xả thải khí thải (đặc biệt là các khí thải nhà kính) tại các nước công nghiệp phát triển một cách bừa bãi, thiếu kiểm soát dẫn đến môi trường không khí thế giới càng ô nhiễm trầm trọng, tầng ozon đứng trước nguy cơ suy giảm đáng báo động ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật trên trái đất. Với mục đích hạn chế sự phát thải của các chất khí có hại tới tầng ôzôn, ngày 22/03/1985 tại Vienna, thủ đô nước Áo, các quốc gia đã cùng nhau ký kết một văn bản thỏa thuận về trách nhiệm của các nước trong việc giảm phát thải các chất có hại đến sự bình ổn của tầng ôzôn (gọi là Công ước Vienna 1985 về bảo vệ tầng ozone). Là một Công ước khung, Công ước Vienna đã thiết lập sự kiểm soát không đặc thù về các chất làm suy giảm tầng ôzôn. Việt Nam đã tham gia Công ước này ngày 26/4/1994, là một thành viên của Công ước thì Việt Nam có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: một là, Việt Nam cần có biện pháp thích hợp để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường đó là các biện pháp được nhấn mạnh là ngăn ngừa để kiểm soát cũng như hạn chế việc sử dụng một số hóa 57

63 chất hay chất khí có thể làm suy giảm tầng ôzôn; hai là, Việt Nam phải bảo đảm hợp tác với các quốc gia khác trong việc nghiên cứu khoa học, quan trắc có hệ thống liên quan tới tầng ôzôn, sự biến đổi tầng ôzôn, những chất làm ảnh hưởng tới tầng ôzôn cũng như những chất thay thế. Do là Công ước khung chỉ quy định những vấn đề mang tính chất cơ bản nên 2 năm sau tại Canada, các quốc gia thống nhất thông qua Nghị định thư Montreal 1987 về các chất làm suy giảm tầng ôzôn đã được nhằm cụ thể hóa hơn Công ước Vienna Việt Nam đã phê chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Nghị định thư Montreal từ này 26 tháng 01 năm Nghị định thư này đã đưa ra một kế hoạch đặc biệt cho việc giảm sản xuất và tiêu thụ các chất làm suy yếu tầng ôzôn trong 10 năm. Đồng thời đặt ra ba giai đoạn để giảm khí nhà kính với mục tiêu giảm 50% khí thải vào năm 1999 và giảm đến zero (0) vào năm 2000 và các bên cần duy trì mức độ phát thải của mình như đã cam kết. Cho đến nay có thể khẳng định Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn năm 1985 và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn 1987 đã và đang được ghi nhận là một thành công của cộng đồng quốc tế trong việc chống lại một thảm họa môi trường toàn cầu tạo ra do sự biến đổi khí hậu do tầng ôzôn bị phá hủy gây nên và đến nay đã có hơn 170 quốc gia phê chuẩn công ước Viên nhằm bảo vệ tầng ôzôn. [90, 433] Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc năm 1992 Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo". Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, các khí nhà kính cơ bản gồm sáu loại chủ yếu: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6. Biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính, mưa axit; thủng tầng ô zôn; cháy rừng; lũ lụt, hạn hán, sa mạc hóa, hiện tượng sương khói,... Vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu trở nên trầm trọng có nguy cơ ảnh hưởng đến sự sinh tồn của con người và sinh vật. Đứng trước bối cảnh đó nhằm ngăn chặn những hiểm họa do biến đổi khí hậu gây ra, tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio De Janeiro, Brazin tháng 6 năm 1992, 162 quốc gia đã tham gia Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng đã phê chuẩn tham gia ngày 16/11/1994. Công ước này là cam kết của các quốc gia nhằm vạch ra khung khổ cho các hoạt động kiểm soát và cắt giảm phát thải khí nhà kính nhằm ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển để ngăn chặn các tác động nguy hiểm của nó tới hệ thống khí hậu. Nội dung chủ yếu của Công ước nhằm: 58

64 - Hình thành các chính sách quốc gia về các biện pháp tương ứng để hạn chế các chất khí có thể gây ra hiệu ứng nhà kính; làm giảm nhẹ sự thay đổi khí hậu bằng cách đối phó với những phát thải do con người gây ra. [90, 35] - Hợp tác giữa các quốc gia nhằm ứng phó với sự thay đổi của khí hậu trao đổi thông tin nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, giáo dục đào tạo và truyền bá đại chúng. - Các nước phát triển sẽ cung cấp nguồn tài chính mới và bổ sung để đáp ứng toàn bộ chi phí cho các nước đang phát triển khi các nước này thực hiện nghĩa vụ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, giáo dục đào tạo và truyền thông. - Các nước cam kết phải thực hiện nghĩa vụ giáo dục, đào tạo nâng cao nhận thức của mọi người về biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của nó. Tuy nhiên, Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc năm 1992, chủ yếu là các thỏa thuận mang tính nguyên tắc giữa các quốc gia nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Do vậy để cụ thể hóa trách nhiệm của các quốc gia liên quan đến vấn đề này, tại Hội nghị các bên tham gia UNFCCC lần thứ 3, được tổ chức tại Kyoto, Nhật Bản - tháng 12 năm 1997, các quốc gia đã thông qua Nghị định thư Kyoto để hướng dẫn, cụ thể hóa Công ước khung về biến đổi khí hậu Nghị định thư Kyoto (gọi tắt là KP) Nghị định thư Kyoto thiết lập ba cơ chế hỗ trợ các nước công nghiệp (Các bên thuộc Phụ lục I) giảm nhẹ phát thải khí nhà kính để đạt được mục tiêu giảm phát thải với chi phí thấp nhất gồm: - Mua bán quyền phát thải quốc tế (IET): cho phép các nước chuyển giao phần phát thải cho phép của mình - Đồng thực hiện (JI): cho phép các nước nhận được tín dụng đối với các giảm phát thải do đầu tư tại các nước công nghiệp hoá khác, điều này dẫn đến chuyển giao "đơn vị giảm phát thải" giữa các nước - Cơ chế phát triển sạch (CDM): cho phép các dự án giảm phát thải hỗ trợ phát triển bền vững ở các nước đang phát triển thu được "các giảm phát thải được chứng nhận - CERs" cho chủ đầu tư dự án. Điểm nhấn quan trọng của KP là xây dựng được cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism-CDM) và hình thành thị trường mua bán Chứng nhận Giảm phát thải khí nhà kính (Certified Emission Reductions-CERs) nhằm hướng tới việc cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Là một trong những nước chịu sự tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia cam kết với các tổ chức quốc tế, như ký kết Công ước khung, Nghị định Kyoto, tham gia dự án CDM - Cơ chế phát triển sạch, có chỉ định cơ quan đầu mối quốc gia, phê chuẩn nghị định thư. Việt Nam đủ điều kiện theo quy định của tổ chức quốc tế để xây dựng và thực 59

65 hiện các dự án CDM. Có thể nói, việc xây dựng và thực hiện các dự án CDM sẽ mang lại các giá trị kinh tế và ý nghĩa bảo vệ môi trường to lớn. Nghị định thư Kyoto cũng cho phép một vài cách tiếp cận linh hoạt cho các nước thuộc Phụ lục I nhằm đạt được mục tiêu cắt giảm khí thải bằng cách cho phép mua lượng khí cắt giảm được từ những quốc gia khác. Điều này có thể đạt được dưới hình thức tài chính hay từ những chương trình hỗ trợ công nghệ cho các nước không thuộc Phụ lục I với mục đích nhằm hoàn thành mục tiêu đã kí kết trong Nghị định thư. Trong thực tế, điều này có nghĩa là các nước nằm ngoài Phụ lục I không bị bắt buộc phải giới hạn lượng khí thải gây ra, nhưng dự án giảm phát thải khí nhà kính hoặc tăng bồn chứa khí nhà kính ở các quốc gia này sẽ thu về "lượng giảm phát thải được chứng nhận - CERs" cho chủ đầu tư dự án. Chỉ cần sở hữu CERs, bất kể chúng có nguồn gốc hay được thực hiện tại quốc gia nào cũng sẽ được chấp nhận, và đã đóng góp vào việc giảm phát thải khí nhà kính như cam kết trong Nghị định thư Kyoto. Theo quy ước, mỗi CERs tương đương 1 tấn khí CO2. Ban điều hành quốc tế về CDM của Liên Hiệp Quốc (EB) là cơ quan có thẩm quyền công nhận và cấp CERs. Về mặt nguyên tắc, người sở hữu CERs có thể bán chứng chỉ này trên thị trường quốc tế cho những đơn vị hay quốc gia có nhu cầu với nguyên tắc thỏa thuận. Cùng với Cơ chế buôn bán chứng nhận giảm phát thải phát thải (IET), Cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto đã tạo ra một thị trường phát mua bán một loại hàng hóa đặc biệt. Thị trường này đang hấp dẫn các nhà đầu tư bởi giá CERs ngày càng tăng và được dự đoán sẽ tiếp tục được mở rộng hơn trong tương lai. [38]. Việt Nam với tư cách là một thành viên của Nghị định thư Kyoto cũng rất tích cực hoàn thiện chính sách pháp luật và thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tham gia phát triển sạch phù hợp với tình thần của Nghị định thư mà Việt Nam đã cam kết. Sơ đồ về các hoạt động CDM. (Nguồn: Có thể thấy các cơ chế được đưa ra trong Nghị định thư Kyoto là cơ sở quan trọng để các quốc gia kiểm soát các khí thải gây hiệu ứng nhà kính kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, ứng phó với biến đổi khí hậu. 60

66 Hiệp định về chống ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN, 6 năm ASEAN là khu vực có trữ lượng than bùn chiếm khoảng 60% tổng diện tích than bùn trên toàn thế giới. Nguồn vàng đen này mang nhiều giá trị cho nèn kinh tế và môi sinh của các nước ASEAN. Tuy nhiên, những năm gần đây, chất lượng môi trường không khí của khu vực ASEAN đã bị ô nhiễm bởi nạn khói mù xuyên biên giới. Nguyên nhân là do những đám cháy ở vùng đất than bùn thường sinh ra khói dày đặc và thải một lượng lớn khí cacbon. Thống kê cho thấy, cháy đất và cháy rừng năm , 2002 và 2005 ở Đông Nam Á đã phá hủy hơn 3 triệu ha đất đầm lầy. Để quan trắc, cảnh báo về tình trạng cháy đất, cháy rừng và nguy cơ khói mù. Đề giải quyết tình trạng ô nhiễm khói mù xuyên biên giới, cuối năm 1997, các Bộ trưởng Môi trường ASEAN đã nhất trí Kế hoạch hành động khói mù khu vực (RHAP) nhằm thực hiện các nỗ lực chung trong việc quan sát, ngăn ngừa và giảm tình trạng ô nhiễm khói mù xuyên biên giới do nạn cháy đất, cháy rừng gây ra. Tiếp đó, Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới đã được ký kết vào tháng 6 năm 2002 và có hiệu lực vào tháng 11 năm 2003 sau khi được 6 nước thành viên ASEAN phê chuẩn. Bên cạnh những hoạt động được triển khai theo RHAP, đã có những bước tiến lớn trong việc thực hiện Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới. Đến nay đã có 10 nước thành viên ASEAN, gồm Brunei, Campuchia, Malaysia, Singapo, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Philippin và Indonexia đã phê chuẩn Hiệp định này. Quá trình triển khai Hiệp định cũng đã đạt được bước tiến quan trọng là thành lập được Quỹ kiểm soát ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN. Bên cạnh đó do mối đe dọa của cháy đất than bùn kèm theo khói bụi đối với kinh tế và sức khỏe của người dân trong khu vực, Chiến lược quản lý đất than bùn ASEAN (APMS) đã được xây dựng, đề ra một số hoạt động cấp quốc gia và khu vực nhằm hỗ trợ việc quản lý đất than bùn trong khu vực. APMS đã hỗ trợ thực hiện sang kiến quản lý đất than bùn ASEAN (APMI) được xây dựng trong khuôn khổ Hiệp định ASEAN về kiểm soát ô nhiễm khói mù xuyên biên giới. APMS được các Bộ trưởng Môi trường ASEAN thống nhất vào tháng 11 năm 2006 và chủ yếu tập trung vào nội dung tăng cường nhận thức và kiến thức về đất than bùn: giải quyết ô nhiễm khói mù xuyên giới và suy thoái môi trường; thúc đẩy quản lý bền vững đất than bùn; tăng cường và thúc đẩy hợp tác khu vực về các vấn đề liên quan đến đất than bùn... Có thể thấy, do tầm quan trọng của môi trường không khí đối với sự sinh tồn của con người và sinh vật nên nhiều điều ước quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở các cấp độ khác nhau đã được các quốc gia thống nhất thông qua. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xác định trách nhiệm của các quốc gia (trong đó có Việt Nam) trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đồng thời là cơ sở để các quốc gia nội luật hóa 61

67 để kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí trong phạm vi quốc gia mình và hợp tác để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí xuyên biên giới, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa nhằm bảo vệ tầng ozon, ứng phó với biến đổi khí hậu thực hiện phát triển bền vững Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu Để cụ thể hóa các nguyên tắc ứng phó với biến đổi khí hậu mà các quốc gia thỏa thuận trong Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, từ năm 1995 đến nay, ngoài những cam kết có phần cụ thể hơn nội dung của Công ước được ghi nhận trong Nghị định thư Kyoto, thì các quốc gia thành viên của Công ước mỗi năm một lần đều tổ chức Hội nghị để bàn về việc tạo ra các cam kết pháp lý quốc tế để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình đàm phán này gặp rất nhiều gian nan từ Hội nghị Cop 1 được tổ chức tại Berlin, Cộng hòa liên bang Đức đến đến Cop 20 tổ chức tại Lima, Peru các quốc gia không thể đạt được được một thỏa thuận chung toàn cầu về ứng phó với biến đổi khí hậu. Hội nghị COP21 diễn ra từ ngày 29/11 đến ngày 13/12/2015 với sự tham gia của gần đại biểu từ 195 quốc gia tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Đặc biệt, Hội nghị đã nhận được sự quan tâm và tham dự của lãnh đạo Chính phủ và Nhà nước của 150 quốc gia. Hội nghị bao gồm các phiên họp của Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21), Hội nghị lần thứ 11 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP 11), Khóa họp thứ 43 Ban bổ trợ về tư vấn khoa học và công nghệ (SBSTA 43), Khóa họp thứ 43 Ban bổ trợ về thực hiện (SBI 43), Khóa họp lần thứ hai Nhóm công tác đặc biệt về thúc đẩy Diễn đàn Durban-phần 12 (ADP2.12). Sau hai tuần đàm phán căng thẳng với các phiên họp kéo dài suốt đêm trong giai đoạn nước rút, vào lúc 19h28 (giờ Paris) ngày 12/12, đại diện của 195 nước tham dự Hội nghị COP21 đã chính thức thông qua Thỏa thuận Paris. Thỏa thuận vừa đạt được là đánh dấu bước đột phá quan trọng trong nỗ lực của Liên hợp quốc suốt hơn hai thập kỷ qua nhằm thuyết phục Chính phủ các nước hợp tác để giảm lượng khí thải gây ô nhiễm, hạn chế việc gia tăng nhiệt độ của Trái đất. Bản thỏa thuận này được ghi nhận và đánh giá là bảo đảm công lý khí hậu, công bằng, hài hòa lợi ích giữa các quốc gia, các cộng đồng, trong thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu. Bởi trước khi Bản thỏa thuận này được thông qua, theo một nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu công bố ngày , 48 nước nghèo nhất trên thế giới cần có 1 nghìn tỷ USD trong khoảng từ năm 2020 đến năm 2030 để có thể thực hiện kế hoạch chống biến đổi khí hậu. Con số trên được Viện Môi trường và Phát triển Quốc tế (IIED) đóng trụ sở tại London (Anh) tính toán dựa vào kế hoạch mà các nước kém phát triển nhất thế giới (LDC) cam kết để thực 62

68 hiện thỏa thuận kiềm chế tình trạng nóng lên toàn cầu của Liên hợp quốc. Theo ước tính, mỗi năm, các nước này sẽ cần có 93 tỷ USD, bao gồm 53,8 tỷ USD cho giảm khí phát thải và 39,9 tỷ USD đối phó với các hiện tượng khí hậu cực đoan và tình trạng nước biển dâng cao. IIED cho biết, hiện các nước kém phát triển mới chỉ được tiếp cận với 1/3 quỹ khí hậu quốc tế do các nước giàu có cung cấp. Cũng trong báo cáo, IIED chỉ ra rằng, dù các nước nghèo đang rất cần nguồn lực để đấu tranh chống biến đổi khí hậu, song phần lớn tiền hỗ trợ lại được chi cho các nước có điều kiện kinh tế khá hơn. Chỉ tính riêng một số nước như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Maroc, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ, số tiền các nước này được nhận đã ngang bằng với tổng tiền tài trợ cho toàn bộ 48 nước nghèo. Một tỷ lệ phân bố tiền không cân đối cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra giữa lĩnh vực đối phó với biến đổi khí hậu và hỗ trợ người dân thích ứng với các cú sốc khí hậu. Trong 11,8 tỷ USD được chi cho các nước nghèo trong năm , tới 10 tỷ USD được dành để hỗ trợ cắt giảm khí thải, và chỉ còn 1,8 tỷ USD dành cho công tác thích ứng với biến đổi khí hậu. Do vậy, COP 21 lần này đã đề ra một thỏa thuận được đánh giá là công bằng và hiệu quả theo hướng ưu tiên cho đầu tư từ khu vực tài chính công quốc tế cho nhóm các nước nghèo, để giúp họ thực hiện được kế hoạch chống biến đổi khí hậu của mình và thu hút được nguồn tài chính tư cho lĩnh vực khí hậu. [125] Bản Thỏa thuận Paris có 31 trang, 29 điều khoản và sẽ thay thế Nghị định thư Kyoto từ năm Thoả thuận Paris sẽ có hiệu lực trong vào 30 ngày sau khi có ít nhất 55 quốc gia, chiếm ít nhất 55% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu phê chuẩn. Về mục tiêu, thỏa thuận này đặt ra mức tăng nhiệt độ của Trái đất đến năm 2100 là thấp hơn đáng kể so với ngưỡng 2 độ C và gắng tiến tới ngưỡng thấp hơn 1,5 độ C. Thỏa thuận Paris còn đề ra cơ chế để mỗi nước tự nguyện rà soát, theo đó từ năm 2023, cứ 5 năm/lần Liên hợp quốc sẽ tổ chức đánh giá hiệu quả tổng hợp về các nỗ lực chống biến đổi khí hậu của các nước. Việc đánh giá này sẽ giúp các nước có thêm thông tin để cập nhật và tăng cường các cam kết của họ. Trong điều khoản về tổn thất và thiệt hại, các bên sẽ tăng cường hiểu biết, hành động và hỗ trợ thông qua Cơ chế quốc tế về tổn thất và thiệt hại cùng với tác động của biến đổi khí hậu. Các nước phát triển sẽ cung cấp nguồn lực tài chính để hỗ trợ các nước đang phát triển thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và các bên được khuyến khích cung cấp hoặc tiếp tục cung cấp hỗ trợ này trên cơ sở tự nguyện. Mức đóng góp 100 tỷ đô la mỗi năm cho đến năm 2020 tiếp tục được khẳng định lại, nhưng quan trọng là Thỏa thuận Paris xem con số 100 tỷ USD này không đủ và đang kêu gọi tăng thêm. Đến năm 2025 sẽ lại đưa ra được một con số cụ thể khác về đóng góp tài chính. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Theo đánh giá ban đầu, Thoả thuận Paris đã đề cập đến các vấn đề mà Việt Nam đang 63

69 quan tâm trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu. Vấn đề đặt ra lúc này là Việt Nam cần phải làm gì để tận dụng tối đa những lợi ích từ thỏa thận này, như: làm thế nào để nhận được cam kết hỗ trợ tài chính nhiều hơn theo cam kết trong Thỏa thuận để thực hiện việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu ở Việt Nam; cần phải rà soát hoàn thiện các chính sách, pháp luật nào để phù hợp với Thỏa thuận; cần phải hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu thế nào để có thể thực thi hiệu quả Thỏa thuận, ; Qua đó có thể thấy, cho đến nay đã có nhiều điều ước quốc tế, khu vực được các quốc gia thỏa thuận thông qua để góp phần bảo vệ môi trường không khí toàn cầu. Đặc biệt là cơ sở cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, xây dựng hòa hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Kết luận chƣơng 2 Chương 2 với chủ đề: Những vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tác giả luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề sau: Thứ nhất, đã phân tích các quan điểm và đưa ra cách hiểu về môi trường, môi trường không khí, đặc điểm của môi trường không khí. Theo đó tác giả cho rằng: môi trường là hệ thống các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Còn môi trường không khí là hỗn hợp các chất khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của trái đất, như nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác có tác động qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Đồng thời chỉ ra các đặc điểm của môi trường không khí, như: các yếu tố cấu thành môi trường không khí khác so với thành phần môi trường khác; môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nhanh; môi trường không khí không thể phân chia được ranh giới; tính không xác định chủ sở hữu cụ thể của môi trường không khí; tính khó xác định giá trị của môi trường không khí; tính khó xác định chính xác thiệt hại của môi trường không khí; Thứ hai, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và phân loại ô nhiễm môi trường không khí, chỉ ra đặc trưng của ô nhiễm môi trường không khí trên cơ sở so sánh với ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước. Theo đó tác giả cho rằng, ô nhiễm môi trường không khí là sự biến đổi của thành phần môi trường không khí không phù hợp/vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí gây ảnh hưởng xấu đến con 64

70 người và sinh vật. Tác giả cũng chỉ ra ô nhiễm môi trường không khí có đặc điểm, như: phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí thường rộng; ô nhiễm môi trường không khí mang tính xuyên biên giới; ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, tổ chức cụ thể mà thường ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người; ô nhiễm môi trường không khí thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động, thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần; ô nhiễm không khí không chỉ ảnh hưởng lớn đến môi trường không khí tầm thấp gần bề mặt trái đất mà còn dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí tầm xa; Thứ ba, khái quát tác động, ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí đến sức khỏe, tính mạng, đời sống, sản xuất của con người và hệ sinh thái ở Việt Nam. Từ đó chỉ ra nhu cầu điều chỉnh ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật. Thứ tư, trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ kiểm soát và đặc thù của ô nhiễm môi trường không khí. Tác giả cho rằng, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, cải tạo phục hồi hiện trạng môi trường không khí; xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Hơn nữa, trên cơ sở đặc thù của ô nhiễm môi trường không khí, tác giả cũng chỉ ra các đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn; kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải có sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương, các vùng và giữa các quốc gia ở các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu; khẳng định trách nhiệm hàng đầu của nhà nước và các chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; nhấn mạnh ý nghĩa, giá trị về mặt sức khỏe, sinh tồn của môi trường không khí đối với con người trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; tính chủ quan, bị động trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường với với bảo vệ môi trường không khí; Thứ năm, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo đó tác giả cho rằng: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều 65

71 chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn; xử lý ô nhiễm môi trường không khí, đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Thứ sáu, chỉ ra việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải dựa trên các nguyên tắc, như: nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững; Nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường không khí; nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn; nguyên tắc tác động tới chi phí và lợi ích theo hướng để các chủ nguồn thải tự nguyện lựa chọn tuân thủ pháp luật; nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm pháp lý; nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường không khí. Phác họa nội dung của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và đưa ra các tiêu chí điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tính dự báo, cảnh báo, tính phòng ngừa được rủi ro phát sinh, tính nhanh chóng, kịp thời, tính cộng đồng trách nhiệm, tính liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế. Thứ bảy, chương này cũng phân tích nội dung điều chỉnh pháp luật trong một số các công ước khu vực và quốc tế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam, như: Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa, Thụy Sĩ 1979; Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985; Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987; Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Hiệp định về chống ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN, tháng 6 năm 2002; Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; 66

72 Chƣơng 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM 3.1. Thực trạng pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trƣờng không khí và tiêu chuẩn môi trƣờng không khí Có thể khẳng định quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường không khí là xương sống của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, là cơ sở để đánh giá hiện trạng môi trường không khí, phát hiện, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là để phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Chính vì vậy, trên thế giới các quốc gia rất quan tâm đến vấn đề này, tại Singapo đã xây dựng hệ thống quy chuẩn môi trường không khí theo sát với quy chế và tiêu chuẩn của nước Anh. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí ở Singapo bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng không khí và tiêu chuẩn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo tiêu chuẩn này, mức độ tác nhân gây ô nhiễm môi trường không khí ở Singapo đang nằm trong phạm vi các mục tiêu lâu dài của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tiêu chuẩn của Cục Bảo vệ môi trường Mỹ (USEPA). Để đảm bảo thực hiện được một cách nghiêm túc các tiêu chuẩn môi trường không khí, pháp luật môi trường nước này quy định rất chặt chẽ. Ví dụ: đối với các chất gây ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Môi trường tiến hành thanh tra thường xuyên các cơ sở công nghiệp cũng như phi công nghiệp để kiểm tra việc các cơ sở đó có tuân thủ đúng tiêu chuẩn quy định về phát thải các chất gây ô nhiễm không khí hay không. Việc thanh tra thường xuyên đó sẽ giúp các cơ quan thanh tra có thể phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm quy định của pháp luật môi trường trong việc thải khí nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, các chất gây ô nhiễm, các chất độc hại thải vào môi trường không khí. Các cơ sở công nghiệp tại Singapo được yêu cầu tiến hành thử nghiệm chất phát thải tại nguồn để đảm bảo các cơ sở đó tuân thủ các tiêu chuẩn quy định. Sau quá trình thử nghiệm đó, các cơ quan quản lý môi trường sẽ xem xét và hướng dẫn các cơ sở đó tiến hành thêm các biện pháp bổ khuyết nếu thấy cần thiết để có thể đạt tới những yêu cầu mà tiêu chuẩn môi trường đặt ra. Bên cạnh đó, các cơ sở công nghiệp đều được yêu cầu lắp đặt các thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí theo đúng các tiêu chuẩn quy định về phát thải. Các thiết bị này sẽ được các cơ quan quản lý môi trường quyết định áp dụng cho các cơ sở công nghiệp dựa trên những điều kiện cụ thể về hiện trạng môi trường tại địa bàn hoạt động của cơ sở đó cũng như dựa trên qui mô hoạt động và qui trình công nghệ mà cơ sở đó đang sử dụng. Hay nói cách khác, thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí được lắp đặt tại các cơ sở công nghiệp phải đảm bảo cả tiêu chuẩn kỹ thuật lẫn tiêu chuẩn an toàn môi trường, an toàn lao động, 67

73 Cũng tại nước này, hệ thống quản lý môi trường ISO cũng đang dần được áp dụng phổ biến. Bởi thực tế Singapo là một đất nước mà công nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Mà sản xuất công nghiệp là nguyên nhân lớn dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy, việc ban hành các quy chuẩn môi trường theo tiêu chuẩn ISO là cơ sở và động lực quan trọng thúc đẩy BVMT không khí ở Singapo theo hướng phát triển bền vững đón đầu xu thế phát triển của thế giới. [35] Tại Malaysia, cũng đã xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí bao gồm các tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; các tiêu chuẩn khí thải làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đánh giá tác động môi trường cũng như xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí. Theo đó tiêu chuẩn thải khí được thiết lập cho các loại nguồn phát thải chất gây ô nhiễm không bao gồm các nguồn phát thải cố định (các cơ sở sản xuất và dịch vụ), các nguồn phát thải di động (các phương tiện giao thông có động cơ). Đối với nguồn phát thải cố định, các tiêu chuẩn thải được xác lập theo 3 mức A, B, C để áp dụng cho các loại nguồn phát thải mới và nguồn phát thải đang hoạt động. Như vậy, tiêu chuẩn thải của mỗi chất ô nhiễm đều được xác lập cho các loại nguồn phát thải khác nhau tùy theo các ngành công nghiệp, nhất là đối với các ngành công nghiệp đặc thù. Ví dụ: các tiêu chuẩn về độ bụi và hạt rắn được xác lập riêng cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng như bê tông, xi măng Ngoài ra, đối với các khu vực đặc biệt, các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn cũng như được thiết lập để áp dụng riêng cho các nguồn phát thải khác nhau chỉ trong khu vực đó. [119]. Còn tại Nhật, đến năm 1968, Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí được xây dựng nhằm tăng cường các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí. Luật này đã ban hành tiêu chuẩn môi trường không khí, cụ thể: tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; Các tiêu chuẩn và quy định phát thải (tiêu chuẩn quốc gia đồng nhất về phát thải; các tiêu chuẩn khác về phát thải chặt chẽ hơn của địa phương); tổng tải lượng ô nhiễm ở các thành phố. Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí đã đưa ra các tiêu chuẩn phát thải, tiêu chuẩn kiểm soát tổng lượng phát thải, tiêu chuẩn về xây dựng, về đường biên và tiêu chuẩn đối với các nồng độ trong môi trường không khí (SO 2 ; NO 2 ; bụi thông thường, bụi đặc thù...). Trong các quy định về kế hoạch kiểm soát ô nhiễm, các tiêu chuẩn môi trường và hệ thống kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm, việc xây dựng các tiêu chuẩn phát thải dựa vào hệ số xả (hệ số K) và tiêu chuẩn tổng lượng phát thải được nhấn mạnh. Sau khi được rà soát, năm 1970, các chất như bụi (thông thường), amiang (bụi đặc thù) cũng được quy định trong Luật. Năm 2004, một chương về kiểm soát phát thải khí VOC cũng được đưa vào Luật. Đồng thời, Luật còn đề cập đến những biện pháp ứng phó với các chất ô nhiễm không khí nguy hại, kiểm soát các nguồn lưu động (trong giao thông), quy định về các phương tiện vận tải chạy trên đường [2]. 68

74 Qua đó có thể thấy pháp luật các nước Singapo, Nhật Bản, Malaysia quy định rất chặt chẽ về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, thậm chí là quy định với các yêu cầu rất cao như tại Singapo, cùng với việc tổ chức thực thi chặt chẽ đã giải thích tại sao môi trường các nước này Singapo lại trong lành và rất đáng sống. Còn ở Việt Nam, theo pháp luật, quy chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường (khoản 5 Điều 3) [83]. Cơ quan chính có thẩm quyền ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói riêng là Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngoài ra còn các cơ quan liên quan khác. Ví dụ: Bộ Giao thông Vận tải ban hành quy chuẩn về khí thải với nguồn thải động, ở cấp tỉnh cũng có thể ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong một số lĩnh vực, nhưng không được thấp hơn quy chuẩn chung cả nước. Trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí rất quan trọng. Hệ thống này được đặt ra để đánh giá hiện trạng môi trường không khí có bị ô nhiễm không, ô nhiễm ở mức độ nào, là căn cứ để xác định và xử lý hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí từ đó lập kế hoạch phát triển lâu dài. Đối với tổ chức, cá nhân quy chuẩn môi trường không khí giúp các tổ chức, cá nhân biết họ được quyền sống trong điều kiện môi trường không khí như thế nào, họ được tác động đến môi trường không khí đâu. Bên cạnh đó, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn là một trong các căn cứ để các cơ sở sản xuất, kinh doanh lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, cơ quan nhà nước cũng dựa vào đó để tiến hành thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án cũng như cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường,...; Luật BVMT 2005 gọi quy chuẩn kỹ thuật môi trường là tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, để phù hợp với Luật về Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và thông lệ quốc tế, trong Nghị định số 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 08 năm 2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2005 đã thống nhất gọi tiêu chuẩn môi trường là quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Đến Luật BVMT năm 2014 đã có sự phân biệt giữa quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường. Theo đó, Luật BVMT năm 2014, quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường. Còn tiêu chuẩn môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được 69

75 các cơ quan nhà nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để bảo vệ môi trường (khoản 5, 6 Điều 3) [83]. So với tiêu chuẩn môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bắt buộc áp dụng trong phạm vi cả nước. Còn tiêu chuẩn môi trường thì ngoài cơ quan nhà nước thì các tổ chức, cá nhân cũng có thể ban hành và không mang tính bắt buộc. Vấn đề đặt ra là thông số được quy định trong tiêu chuẩn môi trường thì mức thấp nhất cũng phải bằng với quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Ví dụ: tiêu chuẩn ISO 14000, SA 8000, ; Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai nhóm quy chuẩn liên quan đến môi trường không khí: Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh Luật BVMT năm 2014 quy định quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí xung quanh, gồm: nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với không khí; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với âm thanh, ánh sáng, bức xạ; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với tiếng ồn, độ rung (điểm d, đ, e, khoản 1 Điều 113). Đây là quy chuẩn được xây dựng nhằm đáp ứng các yêu cầu về quản lý chất lượng không khí xung quanh, nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp và nhằm phù hợp với các mục đích sử dụng thành phần môi trường không khí. Ví dụ: quy chuẩn tiếng ồn tại các bệnh viện, trường học sẽ khác so với tại các khu công nghiệp, Các quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí hiện hành được xác lập trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về y học, vật lý học nhằm đảm bảo môi trường không khí trong sạch. Mức độ đó được đánh giá bằng nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị thể tích không khí (mg/m3). Về quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ngoài trời, Việt Nam có 3 nhóm quy chuẩn kỹ thuật là: + QCVN 05:2013/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh thay thế QCVN 05:2009/BTNMT; + QCVN 06:2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về một số chất độc hại trong không khí xung quanh thay thế TCVN 5938:2005; + QCVN 26:2010/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn thay thế cho TCVN 5949:1998, ban hành kèm theo Thông tư số 16/2009/TT-BTNMT ngày 7/10/2009 quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Các quy chuẩn này có một số nội dung: - Quy định giá trị giới hạn các thông số cơ bản, như: SO2, CO, N0x, O3, bụi lơ lửng (bụi PM10 (bụi <10micromet) và chì (Pb) trong không khí xung quanh. 70

76 - Các quy chuẩn môi trường quy định nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại trong không khí xung quanh. - Quy định thông số tối đa về tiếng ồn trong môi trường không khí xung quanh; Như vậy có thể thấy để đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và giám sát tình trạng ô nhiễm không khí, Nhà nước ta cũng đã ban hành một loạt các quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh. Tuy nhiên, số liệu thống kê cụ thể cho thấy tình hình môi trường không khí xung quanh ở Việt Nam những năm gần đây ở mức độ đáng lo ngại. Cụ thể: Đối với môi trường không khí đô thị: + Về nồng độ bụi, tiếng ồn tại đô thị Việt Nam 71

77 Qua số liệu khảo sát của Tổng cục Môi trường năm 2011 trên, có thể thấy môi trường không khí tại các đô thị ở Việt Nam cụ thể là tiếng ồn, nồng độ bụi tại các đô thị như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh đều vượt 72

78 quy chuẩn cho phép, thậm chí một số nơi nồng độ khí Nox cũng vượt quy chuẩn cho phép. Điều đáng lưu ý là hiện tượng này không có xu hướng giảm đi. [120]. Vấn đề này cũng được thể hiện khá rõ trong Báo cáo quốc gia về môi trường không khí năm 2013, theo Báo cáo này chất lượng môi trường không khí tại đô thị, 5 năm trở lại đây chưa có nhiều cải thiện, chỉ số chất lượng môi trường không khí (AQI) tại các đô thị vẫn duy trì ở mức tương đối cao, điển hình như Hà Nội số ngày có AQI ở mức kém (AQI = 101-:- 200) giai đoạn từ chiếm tới 40-60% tổng sống ngày quan trắc trong năm. Đặc biệt có những ngày chất lượng không khí suy giảm đến ngưỡng xấu (AQI=201-:- 300) và thậm chí là nguy hại (AQI>300) (Biểu đồ 301), trong đó nồng độ bụi là đáng lo ngại nhất. Nguy hiểm hơn ô nhiễm bụi tại các đô thị Việt Nam, gồm: bụi lơ lửng (PM 100), bụi PM 10, và bụi mịn (PM 2.5, PM 1 ). Thậm chú bụi mịn bị Tổ chức y tế thế giới (WHO) cảnh báo là tác nhân lớn gây ung thư phổi, nhưng lại chiếm tỷ trọng tương đối cao ở nước ta. Số liệu quan trắc từ 2008 đến 2013 cũng cho thấy, nồng độ bụi lơ lửng (TSP) trong môi trường không khí xung quanh tập trung cao ở các đô thị có mật độ giao thông lớn, như: Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Biên Hòa) hoặc có các hoạt động sản xuất công nghiệp phát triển mạnh (điển hình như khai thác công nghiệp than ở Quảng Ninh) mức độ ô nhiễm vượt ngưỡng cho phép gấp từ 2 đến 6 lần QCVN 05:2013/BTNMT (biểu đồ 3.6). Ô nhiễm bụi tập trung nhiều tại các trục giao thông, số liệu quan trắc từ cho thấy tỷ lệ giá trị quan trắc vượt quá QCVN05:2013/BTNMT dao động từ 42% ở vùng KTTĐ miền trung, 44% ở vùng KTTĐ miền Nam và cao nhất ở vùng KTTĐ phía Bắc với 68% (Biểu đồ 3.7). Ô nhiễm bụi gần các trục giao thông trong hai năm 2010 và 2011 ở Hà Nội cao hơn hẳn các tỉnh thành còn lại và vượt QCVN 05:2013/BTNMT trung bình năm từ 2-3 lần. Đối với các khu sản xuất, năm 2011 nồng độ bụi lơ lửng TSP đo được vượt từ 3-4 lần QCVN 05:2013 cho phép. Cũng theo Báo cáo này, nồng độ bụi ở khu vực sản xuất vật liệu xây dựng tại một số địa phương vượt QCVN 05:2013 là 3 8 lần, hàm lượng SO 2 có nơi vượt 6,5 lần [102]. Về ô nhiễm khí NO-NO 2 -NO x 73

79 Kết quả tính toán trên có thể thấy các chất gây ô nhiễm không khí trước năm 2013 cho thấy lượng phát thải NO x từ hoạt động nông nghiệp, từ xe ô tô, trong đó phát thải NOx từ xe ô tô lớn hơn so với các chất khác. Còn theo Báo cáo hiện trạng môi trường không khí năm 2013 cho thấy, khí NO có xu hướng tăng lên vào giờ cao điểm giao thông vào buổi sáng và chiều. Còn NO 2 là hợp chất chuyển hóa của NO trong môi trường không khí, vì vậy nồng độ NO 2 thường tăng mạnh sau khi NO phát tán vào môi trường. Mức độ biến động nồng độ các khí NO x cũng có sự phân hóa rõ ràng theo ba miền Bắc, Trung Nam [107, 56]. Về ô nhiễm khí SO, CO. Cũng theo Báo cáo này thì lượng khí SO 2, CO theo quan trắc giữa các đô thị, thì các đô thị lớn có xu hướng bị ô nhiễm cao hơn các đô thị vừa và nhỏ và mức độ ô nhiễm tại các trục giao thông thường cao hơn so với khu dân cư từ 2-3 lần (Biểu đồ 3.19 và Biểu đồ 3.20), [8, 60] [8, 61]. Và lượng phát thải CO từ xe 2 bánh lớn hơn so với các chất khác, chiếm hơn 90% nguồn phát sinh di động [120] + Đối với môi trường không khí xung quanh các khu sản xuất Vấn đề nổi cộm trong ô nhiễm môi trường không khí tại các khu sản xuất hiện nay là vấn đề ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi TSP tại rất nhiều điểm quan trắc xung quanh các khu công nghiệp vượt giới hạn cho phép theo QCVN 05:2013, thậm chí vượt nhiều lần giới hạn cho phép đối với trung bình 24 giờ và trung bình năm. [8, 62] [8, 139]. Về tiếng ồn, tại hầu hết các khu vực quan trắc xung quanh các khu công nghiệp, mức ồn đo được đều xấp xỉ hoặc vượt quy định theo quy chuẩn QCVN 26:2010/BTNMT [8, 67]. Một số chất độc hại khác trong không khí cũng được phát hiện, thậm chí một số chất còn vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 06: Nguyên nhân có thể liên quan đến công nghệ máy móc lạc hậu dẫn tới chưa đáp ứng được các thông số về quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Bên cạnh đó, là ô về nhiễm mùi. Hiện nay, 74

80 các vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề ô nhiễm mùi xung quanh các cơ sở sản xuất, các nhà máy ngày càng tăng lên. Về chất lượng môi trường không khí làng nghề và nông thôn: Những năm qua chất lượng khu vực nông thôn cũng bị ảnh hưởng từ việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, không đúng liều lượng gây phát tán một lượng hóa chất độc hại vào không khí. [8, 72]. Còn tại các làng nghề kết quả quan trắc môi trường không khí năm 2010 thực hiện tại 46 làng nghề thuộc các lĩnh vực: dệt nhuộm (7 làng nghề), sản xuất hàng mỹ nghệ (7 làng nghề), chế biến lương thực, thực phẩm (9 làng nghề), luyện kim- cơ khí (6 làng nghề), mây tre đan và chế biến gỗ (10 làng nghề), giầy da (4 làng nghề), cho thấy có 45/46 làng nghề (chiếm 97,8%) có từ 01 thông số quan trắc chất lượng không khí vượt quy chuẩn cho phép từ 1,1-4,3 lần (so sánh với QCVN 05:2013 và QCVN 06:2009) [8, 72]. Các số liệu thống kê trên đều cho thấy, môi trường không khí xung quanh ở nhiều nơi tại Việt Nam đang bị ô nhiễm. Nồng độ nhiều chất ô nhiễm vượt quá quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh nhiều lần, như: tại các đô thị, các khu công nghiệp, các làng nghề nồng độ bụi, tiếng ồn cũng như các khí thải độc CO, NO, NO2, SO, vượt nhiều lần quy chuẩn cho phép. Bên cạnh đó, ô nhiễm mùi tại các khu sản xuất cũng ngày càng gia tăng, gây ảnh hướng lớn đến sức khỏe, tính mạng, đời sống cũng như hoạt động sản xuất của người dân. Nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này: một là, do hoạt động xả thải các chất gây ô nhiễm tại các khu công nghiệp; hai là, do hoạt động xây dựng; ba là, do hoạt động giao thông vận tải gây ra. Có thể thấy hoạt động giao thông vận tải không chỉ là nguyên nhân gây ô nhiễm bụi, mà còn là nguyên nhân gây ô nhiễm khí CO, NO. Bên cạnh ô nhiễm bụi, tiếng ồn, khí thải, thực tiễn cho ô nhiễm mùi cũng ngày càng gia tăng, trong khi đó hiện nay Việt Nam chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường về mùi. Do vậy, để kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm bụi, đặc biệt là bụi mịn và các khí thải CO, SO, NO cần phải kiểm soát tốt ba nguyên nhân lớn trên đồng thời cũng lưu ý đến vấn đề trồng rừng, cây xanh đô thị, vấn đề vệ sinh môi trường, kiểm soát các phương tiện chuyên chở đất, cát, rửa đường giao thông, ; Về môi trường không khí trong nhà Có thể thấy ô nhiễm môi trường không khí trong nhà, đặc biệt là tại các tòa cao ốc, đã được Tổ chức Y tế Thế giới báo động từ lâu. Theo số liệu thống kê của tổ chức này, năm 2012 thế giới có 7 triệu ca tử vong liên quan tới ô nhiễm không khí trên toàn cầu, thì có 3,3 triệu ca bắt nguồn từ ô nhiễm trong nhà. Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ Lao động trong 4 tòa nhà ở nội thành Hà Nội cho thấy, nồng độ CO2 trong không khí trung bình là 860ppm (nơi cao nhất là 940ppm), 75

81 nồng độ Formaldehyde là 0,023 ppm (cao nhất 0,046 ppm), nồng độ ozon là 0,067ppm (cao nhất là 0,091ppm), nồng độ các chất hữu cơ dễ bay hơi là 6,33 ppm, nồng độ bụi hô hấp là 0,208 mg/m3, các chỉ tiêu sinh vật như tổng nấm là 1285Sl/m3 kk. Thực tiễn cũng cho thấy, Việt Nam hiện chưa có quy chuẩn không khí trong nhà. Tuy nhiên, nếu áp các chỉ số trên vào một số tiêu chuẩn của quốc tế thì thấy vượt quy chuẩn cho phép. Ví dụ: nồng độ Formaldehyde vượt quy định của Viện Quốc gia về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp của Mỹ (NIOSH), nồng độ bụi hô hấp vượt tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn Chất lượng không khí quốc gia (NAAQS) của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (USEPA, 1987). Điều này lý giải tại sao trong Báo cáo môi trường quốc gia về hiện trạng môi trường không khí ở Việt Nam (công bố 18/9/2014) cho thấy, môi trường không khí ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong đó Hà Nội ô nhiễm nhất. Năm 2013, Hà Nội có tới 237 ngày chất lượng không khí kém, 21 ngày chất lượng không khí xấu và một ngày chất lượng không khí vào mức nguy hại. Không khí trong nhà ô nhiễm chứa nhiều chất độc như CO, Bezene, Formaldehyde; ozone - gây ra nhiều loại bệnh về hô hấp, ung thư. Trong trường hợp gia tăng đột biến một trong những chất độc trên sẽ gây ngộ độc cấp tính, giống như trường hợp vừa xảy ra ở Big C Garden. [59] Đứng trước hiện trạng môi trường không khí trong nhà ở Việt Nam đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu như trên. Về mặt pháp lý trước khi Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 có hiệu lực, Việt Nam chưa có quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí trong nhà hay khuyến cáo chính thống liên quan đến môi trường không khí trong nhà nên việc đánh giá và kiểm soát chất lượng môi trường không khí trong nhà vẫn đang là thách thức. Còn theo Luật Bảo vệ Môi trường 2014 thì đã bước đầu quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà, nhưng cho đến thời điểm này Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về vấn đề môi trường không khí trong nhà. Quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà hiện nay mới chỉ dừng ở mức độ rất khái quát (khoản 2 Điều 122) [83]. Hơn nữa, hiện nay cũng chưa có quy định cụ thể về tổ chức quan trắc, đo đạc và đánh giá chất lượng không khí trong nhà định kỳ tại các tòa cao ốc, văn phòng ở Việt Nam, nhằm tránh ảnh hưởng đáng tiếc đến sức khỏe con người [19] Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải Theo Luật BVMT năm 2014, thì quy chuẩn về khí thải gồm: Nhóm quy chuẩn kỹ thuật về khí thải của các nguồn di động và cố định. Nguồn thải di động là nguồn thải từ các phương tiện giao thông và nguồn thải cố định là từ các nhà máy, xí nghiệp gây ra. a. Về nhóm quy chuẩn khí thải đối với nguồn thải tĩnh (nay theo điểm b, khoản 2 Điều 113 Luật BVMT năm 2014 gọi là nguồn thải cố định). 76

82 Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ các nguồn thải cố định, những năm gần đây Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến các nguồn thải này, như: QCVN 51:2013/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép; QCVN 02: 2008/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế; QCVN 19 : 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ; QCVN 20 : 2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp với một số chất hữu cơ; QCVN 21 : 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất phân bón hóa học; QCVN 22: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp nhiệt điện; QCVN 23 : 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất xi măng); QCVN 30: 2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải công nghiệp; QCVN 34: 2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp lọc hóa dầu đối với bụi và các chất vô cơ; Quyết định 3733: 2002/QĐ-BYT: Tiêu chuẩn vệ sinh lao động; Các quy chuẩn này kiểm soát nồng độ các chất hữu cơ, vô cơ và bụi trong thành phần khí thải của các nhà máy, khu công nghiệp trước khi thải vào không khí. Đối với Hà Nội, do có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội là thủ đô của cả nước nên Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành Thông tư số 51/2014/TT- BTNMT quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường riêng cho thủ đô Hà Nội, trong đó có nhóm quy chuẩn về khí thải. Cụ thể: - QCTĐHN 01:2014/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp; đối với bụi và các chất vô cơ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội; - QCTĐHN 03:2014/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp sản xuất xi măng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, theo khảo sát của Tổng cục Môi trường năm 2013 cho thấy ô nhiễm bụi do hoạt động sản xuất công nghiệp đóng góp tỉ lệ cao và không ngừng gia tăng trong những năm qua. Mặt khác nồng độ khí SO 2 từ sản xuất công nghiệp cũng là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội. 77

83 Tỉ lệ gây ô nhiễm của ngành hóa chất cơ bản và các ngành hóa chất khác chiếm tỉ lệ cao từ 25-27% (khoảng từ ,9 tấn/năm. Số liệu thống kê ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải tĩnh còn phát sinh từ các làng nghề tái chế kim loại, giấy, nhựa, đúc đồng, làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, thực phẩm, chế tác với nhiều loại khí độc hại như: khí thải điển hình như: bụi, khí SO 2, NO 2, CO, hơi axit và kiềm sản sinh từ các quá trình như xử lý bề mặt, nung, sấy, tẩy trắng, đục tạo hình các sản phẩm [120]; Qua trình bày trên có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải với các nguồn thải cố định trong nhiều lĩnh vực với các yêu cầu về các thông số môi trường với khí thải không phải quá cao. Tuy nhiên, số liệu trên cho thấy hầu như ngành, lĩnh vực sản xuất nào cũng có những hành vi xả thải chất gây ô nhiễm vượt quá quy chuẩn cho phép ra ngoài môi trường. Thực trạng trên cho thấy: một là, đa số các quy chuẩn vè khí thải đối với nguồn thải cố định được ban hành cách đây 7 đến 8 năm (tức được ban hành vào năm 2009, 2008), nên cần rà soát đánh giá để ban hành các quy chuẩn mới đồng thời bổ sung thêm một số quy chuẩn kỹ thuật với nguồn thải cố định cho đầy đủ và phù hợp hơn với thực tiễn đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí; hai là, quá trình tổ chức thực hiện bảo đảm tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các chủ nguồn thải là chưa thực hiện hiệu quả. Cần phải có biện pháp xử lý với chính các cá nhân, tổ chức 78

84 chủ nguồn thải vi phạm với các cơ quan nhà nước chủ thể có thẩm quyền trong thi hành pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. b. Về nhóm quy chuẩn khí thải đối với nguồn thải động (khí thải từ các phương tiện giao thông (điểm d khoản 2 Điều 113) [83]: Cho đến nay để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải động, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành nhiều quy chuẩn về vấn đề này. Để tạo cơ sở cho việc quản lý các phương tiện trước khi được cho phép lưu thông trên thị trường phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Giao thông và Vận tải đã ban hành Thông tư số 30/2009/TT-BGTVT ngày 19/11/2009 quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới, gồm: + QCVN 04 : 2009/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới; + QCVN 05 : 2009/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe ôtô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Theo đó, mức giới hạn khí thải, các phép thử, phương pháp thử và các yêu cầu quản lý kiểm tra khí thải của xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới đã được ban hành. Các xe thuộc kiểu loại xe đã được cấp giấy chứng nhận chất lượng kiểu loại cũng phải thỏa mãn mức giới hạn khí thải nêu tại Quy chuẩn này. Riêng đối với phép thử bay hơi nhiên liệu, lộ trình áp dụng quy chuẩn này được xác định cụ thể là: đối với xe nhập khẩu mới và kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp mới, áp dụng sau 2 năm từ ngày Quy chuẩn này có hiệu lực. Còn đối với kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày ban hành Quy chuẩn này thì sẽ áp dụng sau 3 năm. Sau đó theo Thông tư số 33/2010/TT-BGTVT, quy định này được sửa là Đối với kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp (SXLR) được cấp giấy chứng nhận chất lượng trước ngày 19 tháng 5 năm 2012: áp dụng phép thử bay hơi nhiên liệu từ ngày 19 tháng 5 năm Có thể thấy quy định sửa đổi đã áp dụng phép thử bay hơi nhiên liệu từ ngày 19 tháng 5 năm 2013 đối với cả các kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp (SXLR) được cấp giấy chứng nhận chất lượng trước ngày 19 tháng 5 năm 2012 (tức là sau khi Thông tư 30 có hiệu lực). Cùng với việc ban hành các thông tư quy định về quy chuẩn khí thải với ô tô, xe máy, mô tô, năm 2011 Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 49/2011/QĐ- TTg quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Theo đó từ ngày , các loại xe ô tô, sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiểu chuẩn khí thải mức 4; mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 3. Ngày , các loại xe ô tô nói trên sẽ phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 5. Trong đó, các mức tiêu 79

85 chuẩn khí thải 3, 4 và 5 là tiêu chuẩn về phép thử và giới hạn gây ô nhiễm có trong khí thải tương ứng với mức tiêu chuẩn khí thải Euro 3, 4, 5 được quy định kỹ thuật về khí thải xe cơ giới của Ủy ban Kinh tế châu Âu hoặc trong chỉ thị của Liên minh châu Âu áp dụng đối với xe cơ giới sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành Thông tư số 45/2014/TT-BGTVT quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải mức 3 đối với xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới (QCVN 77:2014/BGTVT). Quy chuẩn này được xây dựng trên cơ sở TCVN 7357: Phương tiện giao thông đường bộ - Khí thải gây ô nhiễm phát ra từ mô tô - Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN 7357) và TCVN 9726: Phương tiện giao thông đường bộ - Khí thải gây ô nhiễm, khí thải CO 2 và tiêu thụ nhiên liệu của mô tô hai bánh lắp động cơ cháy cưỡng bức hoặc cháy do nén - Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN 9726). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy ô nhiễm môi trường không khí từ hoạt động giao thông ngày càng trở lên trầm trọng. Theo số liệu từ Cục Đăng kiểm Việt Nam tính đến hết quý , Việt Nam đã có tổng cộng ô tô và xe máy, trong đó, số xe máy đã lên đến chiếc [1]. Mô tô, xe máy đang chiếm đến 95% tổng số phương tiện vận tải đang lưu hành và trong 5 10 năm nữa vẫn là loại phương tiện giao thông chưa thể thay thế được. Đây chính là tác nhân chính gây ra tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm không khí tại các đô thị với việc thải ra hàng loạt chất độc hại như: CO, benzene, các hợp chất hữu cơ, Vì vậy, đây trở thành nguồn gây ô nhiễm không khí chính [105], đặc biệt tại các thành phố lớn, như Hà Nội. Số liệu khảo sát cho thấy ô nhiễm môi trường không khí do các phương tiện giao thông vận tải gây ra chủ yếu là các chất ô nhiễm, như: CO, VOCs và NO 2, trong đó có khoảng 85% lượng khí CO, và 95% lượng VOCs được thải ra môi trường không khí từ các phương tiện này. 80

86 Nguyên nhân lượng chất độc hại như CO, VOCs và NO 2 có nhiều trong môi trường không khí chủ yếu do phương tiện giao thông gây ra là do số lượng xe, phương tiệng giao thông tăng nhanh; chất lượng xe ngày càng xuống cấp (do qua nhiều năm sử dụng=>chất lượng thấp, lượng nhiên liệu tiêu thụ cao, khí thải nhiều và gây tiếng ồn lớn)[120];. Qua thực tiễn thực hiện quy chuẩn về khí thải đổi với nguồn thải di động có thể thấy Nhà nước đã ban hành quy chuẩn về khí thải đối với ô tô, mô tô, xe máy trước khi đưa vào lưu thông khá rõ ràng và theo lộ trình để dần phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường không khí từ khí thải của các nguồn thải di động vẫn quá nhiều, số liệu thống kê cho thấy hoạt động giao thông chiếm 70% tỉ lệ đóng góp ô nhiễm không khí tại Hà Nội. Thực tế này cho thấy có một lỗ hổng rất lớn trong khâu hậu kiểm các phương tiện giao thông đang lưu hành có thể thấy có rất nhiều phương tiện không đạt chuẩn về môi trường nhưng vẫn tham gia giao thông gây ô nhiễm môi trường. Một vấn đề nữa là sự chênh lệnh giữa cơ sở hạ tầng giao thông hạn chế với số lượng các phương tiện giao thông quá lớn đặt ra nhu cầu về quy hoạch lại hạ tầng giao thông cũng như tầm nhìn về quản lý giao thông cần phải có những đột phá. Đánh giá tổng thể các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí Việt Nam cho thấy: Thứ nhất, nhiều quy chuẩn được ban hành đã khá lâu cách đây khoảng 8 đến 10 năm nên nhiều yêu cầu về môi trường không còn phù hợp với thực tế hiện nay. Hơn nữa, pháp luật môi trường hiện hành chưa có quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí đối với mùi; Hai là, các quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí của Việt Nam hiện hành còn lạc hậu và có nhiều yêu cầu phát thải rất thấp so với các nước trong khu vực cũng như quốc tế. Ví dụ quy chuẩn kỹ thuật môi trường của Việt Nam với quy chuẩn kỹ thuật môi trường của Singapo, ; Ba là, việc dịch chuyển áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí của khu vực và thế giới vào Việt Nam thể hiện sự máy móc và thiếu đồng bộ, trong khi thực tế quy chuẩn môi trường không khí cần phải xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Ví dụ: hiện nay việc áp dụng quy chuẩn khí thải với phương tiện giao thông của Việt Nam vẫn tương đương EURO 2, trong khi của châu Âu là EURO 5 việc dịch chuyển này mặc dù đã được xây dựng lộ trình thực hiện, nhưng để có thể triển khai hiệu quả ở Việt Nam thì các quy chuẩn này cần phải phù hợp với thực tế cũng như đặc thù Việt Nam [101]. Ba là, số lượng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn chưa đầy đủ, các quy chuẩn được xây dựng còn mang tính chắp vá, thiếu tính hệ thống. Đặc biệt còn thiếu 81

87 quy chuẩn môi trường không khí với từng khu vực có đặc trưng riêng, như quy chuẩn môi trường không khí trong nhà; quy chuẩn môi trường không khí đối với lĩnh vực nông nghiệp, ; Bốn là, chưa có quy định về tổng lượng thải. Quy định về tổng lượng thải là chỉ tiêu rất quan trọng trong các quy chuẩn về khí thải, là cơ sở để nghiên cứu dự báo mức độ, khả năng xảy ra ÔNMTKK ở từng nơi cụ thể, đồng thời chỉ tiêu về tổng lượng thải sẽ là cơ sở để tính các loại thuế, phí môi trường và quota thải cho các cơ sở có khí thải đưa vào môi trường. Là cơ sở để phát triển thị trường mua bán quyền phát thải [38]. Năm là, chưa có quy định cụ thể về thời điểm xả thải cũng như không gian áp dụng, điều này là bất hợp lý vì mỗi vùng, mỗi khu công nghiệp, khu đô thị,... có các điều kiện về môi trường cũng như yêu cầu về chất lượng môi trường không khí khác nhau. Quy định về thời điểm xả thải có ý nghĩa rất lớn trong việc khuyến khích các đối tượng có hoạt động thải tránh xả thải vào các giờ cao điểm dễ gây quá tải cho nguồn tiếp nhận. Sáu là, hiệu lực áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn ở mức độ thấp. Trên thực tế, QCKTMT đã ban hành, nhưng chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện, trách nhiệm pháp lý chưa nghiêm khắc. Ví dụ: sau thanh tra một doanh nghiệp không đạt quy chuẩn về khí thải, các cơ quan thường gia hạn một thời gian để nhà máy tuân thủ, hết thời hạn họ không thực hiện sẽ bị phạt hành chính, nhưng mức tiền phạt theo quy định hiện nay quá thấp không đủ sức răn đe, thậm chí thấp hơn nhiều chi phí bỏ ra để xử lý ô nhiễm dẫn đến doanh nghiệp lựa chọn vi phạm để nộp phạt chứ không đầu tư hệ thống xử lý khí thải[101]. Vấn đề này đặt ra một vấn đề lớn hơn đó là quy định pháp luật thế nào để các chủ thể tự nguyện phải tuân thủ. Bên cạnh quy chuẩn môi trường không khí do quốc gia ban hành có tính bắt buộc với mọi tổ chức, cá nhân thì để KSÔN môi trường không khí, ở phạm vi thế giới cũng có một Bộ quy chuẩn chung cho cả thế giới đó là Bộ quy chuẩn ISO 14000, trong Bộ quy chuẩn này cũng có các quy chuẩn về không khí. Bộ quy chuẩn này có thể được các doanh nghiệp tự nguyện đăng ký tham gia bởi những lợi ích về kinh tế mà nó mang lại. Việc các doanh nghiệp tự nguyện tham gia thực hiện bộ quy chuẩn ISO sẽ góp phần giúp doanh nghiệp có vai trò quan trọng chính yếu trong KSÔN môi trường trong đó có môi trường không khí. Đương nhiên các doanh nghiệp tham gia thực hiện Bộ quy chuẩn này phải đáp ứng được yêu cầu theo quy chuẩn môi trường quốc gia của Việt Nam Thực trạng các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí Quy định về khuyến khích, ưu đãi đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả các quốc gia cũng đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá 82

88 nhân tham gia vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tại Singapo, Chính phủ nước này có chính sách khuyến khích các cơ sở công nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế về quản lý môi trường cũng như đã xây dựng các đề án hỗ trợ tài chính để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời nước này còn đưa ra các chính sách miễn, giảm thuế cho một số hoạt động sản xuất kinh doanh ít gây ô nhiễm môi trường không khí cũng được triệt để áp dụng để giảm thiểu đến mức tối đa các tác động xấu có thể gây ra cho môi trường không khí từ các hoạt động công nghiệp[81]. Hay ở Philippin, Chính phủ nước này đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hợp tác và kêu gọi sự tự nguyện tham gia BVMT của các công dân và các ngành công nghiệp. Đồng thời, họ cũng thực thi một hệ thống trách nhiệm giải trình đối với Chính phủ về các tác động xấu đến môi trường, thúc đẩy việc tuân thủ nghiêm minh các quy định môi trường. Bên cạnh đó, cần thiết phải tăng cường quan hệ đối tác và phối hợp hành động phòng chống ONKK giữa các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, hiệp hội trong lĩnh vực giao thông vận tải và công nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự. Ở Việt Nam, do tầm quan trọng của việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí nên những năm vừa qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cũng như các quy định pháp luật về vấn đề này. Cụ thể Điều 5, Điều 6 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 và Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Một là, khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ tài chính (ưu đãi về huy động vốn đầu tư, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng), đất đai (hỗ trợ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu đãi về tiền thuê đất, hỗ trợ về giải phóng mặt bằng và bồi thường) hay hỗ trợ về về giá và tiêu thụ sản phẩm với các cơ sở thân thiện môi trường (trợ giá sản phẩm, dịch vụ về bảo vệ môi trường, hỗ trợ tiêu thụ đối với sản phẩm), cũng như các ưu đãi hỗ trợ khác như hỗ trợ quảng bá sản phẩm, phân loại rác tại nguồn, giải thưởng về bảo vệ môi trường, cho các tổ chức, cá nhân nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển các ngành kinh tế thân thiện môi trường không khí, như: năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Hai là, ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường không khí; Ba là, áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu tốt hơn về BVMT không khí; gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường không khí với ứng phó với biến đổi khí hậu. Mặt khác, Nhà nước mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về BVMT không khí; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về BVMT không khí Có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường 83

89 không khí. Mặc dù vậy thực tế cho thấy để được hưởng một số chính sách này là không hề dễ dàng. Do vậy, tổ chức, cá nhân trên thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và hiệu quả thực hiện một số chính sách cũng chưa cao. Ví dụ: nhiều năm nay nước ta ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ phòng ngừa, xử lý ô nhiễm môi trường không khí, nhưng khoa học trong nước vẫn chưa phát triển, trong khi đó đa phần các máy móc, thiết bị sản xuất nhập khẩu vẫn lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Trong khi các nhà khoa học được đào tạo bài bản ở nước ngoài sau khi học xong lại không muốn về Việt Nam để làm việc, hay chính sách về sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm thân thiện môi trường cũng có vấn đề. Hay chính sách về phát triển xăng sinh học E5 để giảm thiểu sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường không khí, nhưng chính sách này cho tới nay có nhiều nguy cơ bị sụp đổ khi có nhiều nhà máy chế biến xăng sinh học ra đời, nhưng sản phẩm xăng sinh học lại dường như rất khó tiêu thụ, Quy định về phát triển bền vững nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Ô nhiễm môi trường nói chung, ÔNMTKK nói riêng có thể do tự nhiên hoặc con người gây ra. Trong bối cảnh ngày nay nguyên nhân chủ yếu gây ÔNMTKK là do các hoạt động kinh tế thiếu tầm nhìn của con người (phát triển chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên và thải chất ô nhiễm vào môi trường) gây ra. Do vậy, để bảo vệ môi trường, KSÔN môi trường không khí được hiệu quả, việc xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật về phát triển bền vững rất quan trọng. Thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1980 trong cuốn: Chiến lược bảo tồn thế giới của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), đó là: Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học [22]. Thuật ngữ này tiếp tục được phát triển trong Báo cáo tương lai của chúng ta (Báo cáo Brundtland) năm 1987 ghi rõ: Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai [133], và chính thức được ghi nhận tại Hội nghị môi trường và phát triển năm 1992 tại Jio de Janeiro, Braxin. Tại Hội nghị này đã thống nhất để con đường phát triển của các quốc gia trên thế giới là phát triển bền vững: phát triển kinh tế nhằm đảm bảo công bằng trong hưởng thụ các nhu cầu trong cùng một thế hệ và giữa thế hệ hiện tại với thệ hế tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Để thực hiện việc này, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Môi trường và phát triển; Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu. 84

90 Trên thực tế để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng, nhiều nước trên thế giới đã ban hành quy định về vấn đề này. Ví dụ: ở Singapo, Chính phủ nước này rất quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, để thực hiện được việc này họ ban hành các quy chuẩn môi trường theo tiêu chuẩn ISO Đây là cơ sở và động lực quan trọng thúc đẩy BVMT không khí ở Singapo thể hiện sự chủ động theo hướng phát triển bền vững đón đầu xu thế phát triển của thế giới [81]. Hay tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, tháng 11 năm 2009, Tổng thống Obama chuyển mô hình tăng trưởng của Mỹ sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong chiến lược Tái công nghiệp hóa cho giai đoạn 10 năm tới nhằm phát triển công nghệ mới dự kiến đầu tư USD hỗ trợ cho các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo cách Kinh tế các bon thấp, giảm thiểu phát thải khí nhà kính [56]. Qua đó cho thấy phát triển bền vững là xu thế tất yếu của các quốc gia và góp phần kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí một cách chủ động. Ở Viêt Nam đến nay, chúng ta cũng ban hành nhiều quy định về phát triển bền vững như, Kế hoạch về phát triển bền vững ; Chỉ thị số 36/CT-TW năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 41/CT-TW năm 2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cùng năm 2004, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định thông qua Chương trình nghị sự 21 bàn về phát triển bền vững ở nước ta trong thế kỷ 21. Sau đó một năm, Luật BVMT 2005 ra đời đã ghi nhận phát triển bền vững là một nguyên tắc của Luật và nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận và phát triển một bước mới về chất trong Hiến pháp năm 2013, theo đó phát triển bền vững ở Việt Nam không chỉ thể hiện thông qua phát triển ba trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường mà nó còn thể hiện qua phát triển văn hóa, tinh thần, an ninh-quốc phòng và đối ngoại [71]. Luật BVMT năm 2014 đã tiếp tục ghi nhận phát triển bền vững và bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành là một nguyên tắc quan trọng của Luật này. Như vậy, theo quy định của pháp luật BVMT ở nước ta, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững không được coi là một mục tiêu được đặt ra để đạt được mà đó là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Để bảo đảm sự phát triển bền vững việc KSÔN môi trường không khí đóng vai trò quan trọng. Có thể khẳng định nếu không kiểm soát được ÔNMTKK thì cũng không 85

91 thể có phát triển bền vững, thậm chí loài người có thể bị diệt vong do biến đổi khí hậu toàn cầu. Do vậy, pháp luật quy định về chính sách BVMT không khí ở Việt Nam đã đưa yêu cầu BVMT không khí vào trong toàn bộ quá trình phát triển từ khâu lập chiến lược, quy hoạch, phát triển; lập, phê duyệt và thực hiện dự án đầu tư đến quá trình hoạt động của các công trình và trách nhiệm thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ; vừa quy định về BVMT không khí theo ngành, lĩnh vực, vừa quy định về BVMT không khí theo địa bàn, khu vực; sử dụng đồng bộ các công cụ, các biện pháp BVMT không khí; xã hội hóa hoạt động BVMT không khí; quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động BVMT không khí; quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động BVMT không khí. Rõ ràng thực hiện phát triển bền vững sẽ góp phần quan trọng vào KSÔN môi trường không khí, bởi xét cho cùng ÔNMTKK là một trong các nguyên nhân dẫn đến phát triển không bền vững và muốn hướng tới phát triển bền vững thì phải kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí. Qua đó có thể thấy, về cơ bản Việt Nam đã ban hành được một hệ thống các chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật về phát triển bền vững với rất nhiều các mục tiêu giải pháp thực hiện, tuy nhiên tổng kết 10 năm phát triển của Việt Nam trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cho thấy kinh tế nước ta phát triển vẫn chưa bền vững, môi trường vẫn bị ô nhiễm, tài nguyên bị suy thoái trầm trọng. Thực tế này dường như trái với quan điểm, chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật của Việt Nam về phát triển bền vững mà vụ gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại nguồn lợi thủy sản cho ven biển miền Trung của Công ty thép Hưng Nghiệp Fomosa gần đây hay VEDAN cách đây vài năm, gây thiệt hại rất lớn cho môi trường cũng như người dân là những vụ việc mang tính điển hình của sự phát triển chưa bền vững. Điều đó cho thấy sau 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước của Việt Nam rõ ràng có vấn đề trầm trọng. Nhìn lại bức tranh phát triển kinh tế của đất nước 30 năm qua không khó gì chúng ta không thấy đa phần các hoạt động phát triển kinh tế, thu hút đầu tư của chúng ta, như công nghiệp hóa chất, công nghiệp dệt may, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp sắt thép, công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản với các công nghệ lạc hậu, đều là là lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí nghiêm trọng. Do vậy, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thông qua thực hiện chính sách pháp luật về phát triển bền vững, Việt Nam cần phải đưa yếu tố bảo vệ môi trường vào để xem xét lại chiến lược, chính sách thu hút đầu tư của mình, 86

92 Quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT không khí Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hoạt động phát triển kinh tế gây ra, bên cạnh quy định về quy hoạch môi trường được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. pháp luật BVMT cũng quy định về việc lập, thẩm định thông qua các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường, Các quy định này nhằm đưa BVMT trở thành một nội dung của quá trình phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí chủ yếu là do hoạt động kinh tế của con người gây ra: hoạt động phát triển kinh tế có thể chia thành ba cấp độ: lớn nhất là các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế; các dự án đầu tư cụ thể và các dự án nhỏ quy mô hộ gia đình, cá nhân. Để đảm bảo các hoạt động kinh tế từ lớn đến nhỏ này không gây ô nhiễm môi trường thì trước khi các hoạt động kinh tế trên được thông qua và thực hiện trên thực tế thì các chủ thể phải lập báo cáo đánh giá về môi trường của các hoạt động này. Cụ thể: - Đối với đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) Với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, pháp luật quy định cơ quan được giao lập chiến lược, quy hoạch phải có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), các báo cáo này lập nhằm phân tích, dự báo các tác động của chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế đến môi trường. Sau khi lập xong các báo cáo này sẽ được chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tổ chức thành lập Hội đồng thẩm định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tùy loại dự án) sẽ thành lập Hội đồng thẩm định để thẩm định ĐMC. Kết luận của Hội đồng thẩm định là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét phê duyệt chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế. Đánh giá môi trường chiến lược không được quy định trong Luật BVMT 1993 mà lần đầu tiên được quy định trong Luật BVMT Việc quy định về lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược là đưa các yếu tố môi trường vào nội dung phát triển kinh tế nhằm đảm bảo quá trình phát triển kinh tế sẽ không làm ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong đó có môi trường không khí hướng tới phát triển bền vững. Qua phân tích Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16,, Luật BVMT năm 2014 có thể thấy Nhà nước có trách nhiệm và vai trò chủ đạo trong tổ chức và thực hiện báo cáo ĐMC. Việc thực hiện tốt ĐMC là cơ sở quan trọng trong việc ngăn ngừa, phòng trước ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Tuy nhiên, về nội dung báo cáo ĐMC, Luật mới chỉ quy định về dự báo liên quan đến biến đổi khí hậu mà chưa quy định cụ thể trách nhiệm phân tích, dự báo cụ thể về tác động với môi trường không khí. 87

93 Điều này có thể dẫn tới việc cơ quan lập, thẩm định, phê duyệt ĐMC có thể sẽ coi nhẹ việc đánh giá ĐMC với môi trường không khí. Hơn nữa, mặc dù Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 đã coi Báo cáo ĐMC là một căn cứ bắt buộc để dự án chiến lược, quy hoạch được xem xét thông qua, nhưng hiện nay việc thực hiện đánh giá ĐMC đối với các dự án chiến lược, quy hoạch vẫn còn mang nhiều tính hình thức. - Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp BVMT khi triển khai dự án đó. Báo cáo đánh giá tác động môi trường có vai trò rất quan trọng trong KSÔN môi trường không khí. Báo cáo này ra đời nhằm ngăn ngừa, phòng trước những tác động xấu của các dự án đầu tư cụ thể đến môi trường, trong đó có môi trường không khí trước khi dự án đó được cấp phép đầu tư thực hiện trên thực tế. Báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định lần đầu tiên trong Luật BVMT 1993 và ngày càng hoàn thiện trong Luật BVMT 2005 và đến nay là Luật BVMT Luật BVMT 2014 quy định tương đối cụ thể về đối tượng phải lập ĐTM, thực hiện ĐTM, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường, tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường; nội dung chính của ĐTM, thẩm định ĐTM; Thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Ngoài ra, Luật BVMT 2014 đã có quy định cụ thể hơn so với Luật BVMT 2005, như: về việc lập lại báo cáo ĐTM; về tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường; về thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Luật BVMT 2014 tiếp tục quy định về thẩm định ĐTM thông qua Hội đồng thẩm định, tuy nhiên bỏ thẩm định báo cáo thông qua tổ chức dịch vụ thẩm định mà thay vào đó là thông qua việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định. Sở dĩ, Luật mới bỏ thẩm định qua tổ chức dịch vụ thẩm định là do từ khi quy định về thẩm định bằng tổ chức này từ 2005 đến nay chưa có một báo cáo ĐTM nào được thẩm định thông qua tổ chức này. Về phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, Luật BVMT 2014 quy định cụ thể về thời gian phê duyệt báo cáo là trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trường hợp không phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do. Đây là quy định quan trọng nhằm đảm bảo rằng việc thẩm định báo cáo ĐTM không bị kéo quá dài ảnh hưởng đến việc xem xét phê duyệt, cấp phép đầu tư cho dự án. Theo quy định của pháp luật các chủ dự án phải lập báo cáo ĐTM với ba nội dung cơ bản: phân tích hiện trạng môi trường không khí tại địa bàn hoạt động của dự án 88

94 hoặc của cơ sở mình; dự báo diễn biến môi trường không khí khi dự án đi vào hoạt động hoặc cơ sở tiếp tục hoạt động trên địa bàn đó; kiến nghị các giải pháp thích hợp về BVMT không khí và hậu ĐTM. Thực hiện nghĩa vụ này, các chủ thể khi tiến hành hoạt động của mình sẽ phải dự liệu trước được những tác động tiêu cực có thể gây ra cho không khí xung quanh đồng thời dự tính trước các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn chúng thông qua đó thực hiện phòng ngừa ô nhiễm không khí, sự cố môi trường không khí khi triển khai dự án trên thực tiễn (Điều 18 đến Điều 34 Luật BVMT năm 2014). Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường. Mặc dù vậy, Luật BVMT năm 2014 không quy định riêng, rõ ràng, yêu cầu bắt buộc về đánh giá tác động môi trường không khí. Ví dụ: chủ dự án có thể giới hạn phạm vi đánh giá tác động môi trường với môi trường đất và môi trường nước mà không đưa môi trường không khí vào nội dung đánh giá. Hơn nữa, thực tiễn lập báo cáo ĐTM cho thấy nhiều báo cáo do không được kiểm tra chặt chẽ ngay từ khi lập báo cáo, hay việc thẩm định chỉ mang tính qua loa nên chỉ mang tính hình thức cho có. Điều này có thể dẫn đến sự thờ ơ, coi nhẹ của chủ dự án trong quá trình lập ĐTM liên quan đến môi trường không khí. - Quy định về kế hoạch BVMT không khí (Luật BVMT 2005 gọi là Cam kết bảo vệ môi trường). Cũng như báo cáo ĐMC và ĐTM, Luật BVMT hiện hành chưa có quy định cụ thể về kế hoạch BVMT không khí mà chỉ quy định chung về kế hoạch bảo vệ môi trường. Đối với các hoạt động kinh tế quy mô nhỏ hơn không thuộc đối tượng phải lập ĐMC hoặc ĐTM thì phải làm cam kết bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường không khí theo Luật BVMT Còn theo Luật BVMT năm 2014 thì gọi là kế hoạch bảo vệ môi trường, trong đó có BVMT không khí. Có thể thấy so với Luật BVMT 2005, Luật BVMT năm 2014 đã quy định về đối tượng phải đăng ký kế hoạch BVMT cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn; đồng thời quy định rõ về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác nhận đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường. Việc thực hiện đúng kế hoạch BVMT này sẽ góp phần BVMT nói chung và phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Luật này cũng quy định đối tượng phải lập kế hoạch BVMT là các phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng phải lập dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Chủ dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quy mô hộ gia đình, không thuộc đối tượng phải lập ĐTM thì phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường, tùy trường hợp theo quy định của pháp luật hiện hành gửi UBND cấp tỉnh, cấp huyện hoặc UBND cấp xã trong trường hợp UBND cấp huyện ủy quyền xem xét, xác nhận 89

95 trước khi triển khai dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Sau đó trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định để xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường. Tiếp đó chủ dự án, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sau khi kế hoạch BVMT được xác nhận phả có trách nhiệm: tổ chức thực hiện các biện pháp BVMT theo kế hoạch BVMT đã được xác nhận. Trường hợp xảy ra sự cố môi trường phải dừng hoạt động, thực hiện biện pháp khắc phục và báo ngay cho UBND cấp xã hoặc UBND cấp huyện nơi thực hiện dự án hoặc cơ quan chuyên môn về BVMT thuộc UBND cấp tỉnh, cơ quan có liên quan. Hợp tác và cung cấp mọi thông tin có liên quan cho cơ quan quản lý nhà nước về BVMT kiểm tra, thanh tra. (Điều 29 đến Điều 34 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014). Qua đó có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành quy định khá cụ thể về nghĩa vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng như kế hoạch BVMT nói chung của các chủ đầu tư dự án, các chủ tổ chức, cá nhân. Việc thực hiện tốt các quy định này của các chủ thể trên sẽ góp phần quan trọng vào quá trình phòng ngừa ô nhiễm môi trường nói chung, ÔNMTKK nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều chủ thể vi phạm pháp luật về vấn đề này, nhưng chưa được xử lý triệt để, có nhiều báo cáo ĐTM chưa đánh giá hết được tác động của dự án đầu tư đến môi trường mà vẫn được cấp phép đầu tư gây bất bình trong nhân dân. Ví dụ: Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án Đồng Nai 6, Đồng Nai 6A, Dự án san lập sông Đồng Nai đoạn đi qua thành phố Biên Hòa; hay báo cáo ĐTM dự án khai thác Bôxít Tây Nguyên, Thậm chí, có có không ít dự án chủ đầu tư không xuất phát thực sự từ dự án đầu tư của mình mà lấy báo cáo ĐTM của dự án khác mà vẫn được thông qua. Sở dĩ có vấn đề này là do hoạt động thẩm định các báo cáo ĐTM vẫn chưa thực chất. Liên quan đến vấn đề này, theo quy định của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 thì ngoài Bộ Tài nguyên và Môi trường có quyền thành lập Hội đồng thẩm định thì các Bộ khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có quyền thành lập Hội đồng thẩm định đối với các dự án thuộc quyền phê duyệt của mình. Do vậy, gây ra hiện tượng vừa đá bóng, vừa thổi còi. Khi Bộ đã muốn phê duyệt dự án đó thì ít trường hợp Hội đồng thẩm định do chính Bộ đó thành lập lại không thông qua báo cáo ĐTM, Vấn đề xuyên suốt hơn tất cả và có lẽ là vấn đề nóng ở Việt Nam hiện nay vẫn là tổ chức thực hiện còn rất nhiều hạn chế, Luật tốt mà cán bộ thực hiện không tốt thì cũng khó mà mang lại hiệu quả thực sự được. Vấn đặt ra là phải điều chỉnh pháp luật làm sao để chủ đầu tư dự án cũng như cơ quan chủ thể có thẩm quyền tự nguyện lựa chọn thực hiện mà không muốn/không giám vi phạm Quy định về quản lý khí thải phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Quản lý chất thải là quá trình giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải. Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường 90

96 không khí vấn đề quản lý khí thải đóng vai trò quan trọng. Tại Malaysia, đã áp dụng các quy định rất nghiêm ngặt về quản lý chất thải nguy hại. Chiến lược từ ô nhiễm đến nấm mồ của Malaysia đã xác lập một danh mục 107 loại chất thải nguy hại (bao gồm cả chất thải dạng khí, lỏng, rắn) cần phải được quản lý chặt chẽ. Để thực thi được điều đó, pháp luật môi trường của Malaysia quy định tương đối cụ thể về trình tự, thủ tục buộc các cơ sở phải khai báo quá trình phát sinh ra chất thải, xử lý, vận chuyển và thải bỏ an toàn các chất thải đó. Có thể nói nước này áp dụng các biện pháp khá mạnh mẽ để quản lý hiệu quả khí thải [3]. Ở Việt Nam, quản lý chất thải, đặc biệt là khí thải có vai trò quan trọng trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Luật BVMT năm 2014 hiện hành quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý các nguồn gây ô nhiễm. Cụ thể nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc điểm của khí thải. Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải, Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải không được phép vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Không được thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí; không được thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường; không được gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường; không được phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên, Vấn đề đặt ra là tại sao ở Việt Nam, các doanh nghiệp, các chủ nguồn thải, thậm chí các cơ cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại không thực hiện đầy đủ/thực hiện đúng các quy định về quản lý khí thải nói chung và khí thải nói riêng. Ví dụ như: vụ Vedan xả thải ra sông Thị Vải, vụ Fomosa xả thải ra biển, Ở đây có hai vấn đề cần phải làm rõ: Một là, các quy định pháp luật về vấn đề này đã hoàn thiện chưa, đã đồng bộ chưa, đã cụ thể chưa, đã đủ sức răn đe chưa? Có thể thấy, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 đã có sự quan tâm nhất định đến quản lý, bảo vệ môi trường không khí. Tuy nhiên, các quy định về vấn đề này còn chưa cụ thể khó áp dụng trên thực tiễn.ví dụ: vấn đề xử lý khí thải hiện nay là một vấn đề nóng nhiều doanh nghiệp lợi dụng tính khuếch tán của 91

97 môi trường không khí họ đã xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý các chất gây ô nhiễm, kiểm soát hoạt động xử lý khí thải này thế nào? đối với các doanh nghiệp lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ kiểm soát thông tin từ hệ thống này như thế nào, theo kênh báo cáo của doanh nghiệp theo định kỳ hay có thể được đấu nối trực tiếp để cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể kiểm tra bất cứ lúc nào, Có những quy định đã cụ thể nhưng lại chưa đủ sức răn đe, như quy định về mức xử phạt quá thấp dẫn đến doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt mà không thực hiện các biện pháp xử lý khí thải; có những quy định thì lại không khả thi. Ví dụ liên quan đến quản lý chất thải, Bộ luật Hình sự hiện hành có quy định về Tội vi phạm các quy định về quản lý chất thải, nhưng thực tế cho thấy chưa một cá nhân nào bị xử lý hình sự về tội này, Bên cạnh đó, pháp luật quy định nhiều cơ quan nhà nước chủ thể có thẩm quyền tham gia vào kiểm soát ô nhiễm môi trường, trong đó có quản lý chất thải, vẫn không thực thi đúng/đầy đủ chức trách nhiệm vụ của mình gây thiệt hại cho môi trường, trong đó có môi trường không khí, vẫn chưa được xử lý thích đáng về trách nhiệm pháp lý. Qua truyền thông chúng ta biết vụ chìm phà Sewon tại Hàn Quốc làm chết hàng trăm học sinh, cho rằng lực lượng cảnh sát biển không hoàn thành nhiệm vụ cứu giúp học sinh trong vụ việc này, Tổng thống Hàn Quốc quyết định giải tán lực lượng cảnh sát biển Hàn Quốc, thậm chí thủ tướng Hàn Quốc cũng xin từ chức về vụ việc này. Khảo cứu một số nước phát triển có thể thấy pháp luật nước đó thường quy định rất chặt chẽ, rõ ràng và đảm bảo tính pháp chế rất cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Ngoài cơ chế pháp lý, ở các nước này văn hóa từ chức không có gì xa lạ. Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta chưa làm được cả hai việc này. Hai là, về vai trò của các đoàn thể xã hội trong quản lý chất thải. Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngoài trách nhiệm chính thuộc về các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải thì vai trò kiểm soát từ bên ngoài là vô cùng quan trọng đó là kiểm soát của các đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư, Luật Bảo vệ Môi trường hiện hành cũng có quy định về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hôi Liên hiệp phụ nữ, Hội Cứu chiến binh, Công đoàn,.. Thực tế Việt Nam những năm qua cho thấy đa phần các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải, trong đó có khí thải lại là do cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội dân sự, phát hiện và góp phần quan trọng vào giải quyết triệt để vấn đề này và truyền thông là phương tiện quan trọng để thúc đẩy công lý được thực thi. Vụ dụ: vụ Fomosa xả nước thải ra biển các ngư dân cũng là người phát hiện ra đầu tiên, vụ gây ô nhiễm xỉ bụi tại nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 Bình Thuận gây ô nhiễm cho môi trường không khí xung quanh nhà máy, cộng đồng dân cư, các nhà 92

98 báo đã vào cuộc thông tin nhanh chóng đến được cơ quan có thẩm quyền và được giải quyết nhanh chóng, vụ chôn lấp hóa chất độc hại tại Thanh Hóa, hay Khánh Hòa cũng do người dân phát hiện ra. Vụ Vedan cũng cho thấy khi mà mọi cơ chế pháp lý từ hành chính đến tòa án đều khó có thể buộc Vedan tâm phục, khẩu phục để bồi thường thiệt hại môi trường thì sự tẩy chay của người dân không dùng hàng của Vedan đã khiến Công ty này phải chùn bước và bồi thường cho người dân. Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay khi mà nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm xã hội của mình trong bảo vệ môi trường, sẵn sàng vi phạm pháp luật môi trường, quản lý nhà nước về môi trường còn chưa hiệu quả thì vai trò của các đoàn thể xã hội lại càng trở nên quan trọng. Ba là, về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường không khí nói riêng. Tác giả cho rằng trên tất cả các công cụ này để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí có hiệu quả thì trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đóng vai trò rất quan trọng. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trong đó có trách nhiệm trong phòng ngừa kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí không chỉ mang lại lợi ích cho chính doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho sự phát triển bền vững của xã hội. Do vậy các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ở Việt Nam cần nhận thức được điều này và có những chính sách, hành động cụ thể để tham gia. Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Cụ thể là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các Hiệp hội da giày, Dệt may trao giải thưởng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, 93

99 thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay cái khó trong thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, trong bảo vệ môi trường nói riêng là nhận thức về vấn đề này chưa đúng như kiểu ban tặng, từ thiện và đặc biệt là chúng ta chưa có hành lang pháp lý hoàn thiện về vấn đề này.[32] Có thể khẳng định kinh doanh là phải có lợi nhuận, nhưng sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp không chỉ là lợi nhuận mà còn là vấn đề trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, nó không chỉ thể hiện qua một vài công việc làm từ thiện mà gắn suốt với quá trình tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Đã qua rồi thời kỳ có hàng gì là người tiêu dùng phải chấp nhận hàng hóa đó mà không có sự lựa chọn, kinh tế thị trường giúp cho người tiêu dùng thông minh hơn họ có quyền xem xét, lựa chọn và có quyền đòi hỏi những sản phẩm của doanh nghiệp nào mang lại lợi ích và giá trị tốt nhất cho họ. Do vậy, sự phát triển của xã hội, của con người, sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phải dừng lại các hành vi gây tác động xấu đến cộng đồng và tự nguyện thực hiện trách nhiệm xã hội của mình sẽ mang lại lợi ích cho chính họ Quy định về dự báo ô nhiễm môi trường không khí Dự báo các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng có vai trò rất quan trọng trong KSÔN môi trường không khí, đặc biệt là trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn cho thấy dự báo nói chung dự báo ô nhiễm môi trường không khí nói riêng có nhiều phương pháp. Việc lựa chọn phương pháp dự báo phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, các lĩnh vực dự báo liên quan đến hiện tượng tự nhiên thì phương pháp định lượng hay được sử dụng như mô hình hóa, phương pháp kịch bản, Tuy nhiên, tùy vào từng lĩnh vực, ngành mà các phương pháp dự báo có thể khác nhau. Ví dụ, ở châu Âu, các mô hình về thay đổi môi trường được chia theo các chủ đề khác nhau như Nông nghiệp; chất lượng không khí; đa dạng sinh học; khí hậu; năng lượng; sử dụng đất; chất thải rắn; nước, mỗi một chủ đề thường có nhiều mô hình/công cụ. Hiện nay, trên thế giới, trong lĩnh vực tài nguyên môi trường, nhiều mô hình đang được nghiên cứu và ứng dụng để dự báo tốc độ tan băng ở Bắc Cực, lượng khí thải nhà kính, thảm phủ thực vật trên trái đất trong tương lai Ở Việt Nam, những năm gần đây có nhiều nỗ lực trong hoàn thiện chính sách, pháp luật và mô hình dự báo ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Cụ thể trong Luật BVMT năm 2014 rất coi trọng hoạt động này, cụ thể: Một là, dự báo ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm môi trường không khí được quy định là một trong các nội dung của báo cáo ĐMC. Cụ thể Báo cáo ĐMC phải đánh giá, dự báo xu hướng tích cực và tiêu cực của các vấn đề môi trường trong trường hợp thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Đặc biệt là đánh giá, dự báo xu hướng 94

100 tác động của biến đổi khí hậu trong việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. (Điều 15 Luật BVMT năm 2014); Hai là, không chỉ được ghi nhận trong nội dung của báo cáo ĐMC, dự báo cũng được ghi nhận trong nội dung chính của báo cáo ĐTM (Nội dung của báo cáo ĐTM phải đánh giá, dự báo các nguồn thải và tác động của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đánh giá, dự báo, xác định biện pháp quản lý rủi ro của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng (Điều 22) và kế hoạch bảo vệ môi trường (nội dung của kế hoạch BVMT phải dự báo các loại chất thải phát sinh, tác động khác đến môi trường (Điều 30). Ba là, Luật khẳng định rõ cần ưu tiên phát triển ngành và liên ngành khoa học về quản lý, đánh giá, giám sát và dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với phát triển kinh tế - xã hội, môi trường, sức khỏe cộng đồng (Điều 47). Luật cũng đề cao phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ về bảo vệ môi trường, trong đó ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao, phát triển và ứng dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm, quan trắc, đánh giá chất lượng môi trường và công nghệ dự báo, cảnh báo sớm các biến đổi môi trường; Bốn là, trong nội dung quản lý chất thải nguy hại, trong quy hoạch bảo vệ môi trường, Luật quy định về dự báo liên quan đến đánh giá, dự báo nguồn phát thải nguy hại và lượng phát thải (Điều 94); Năm là, trong nội dung báo cáo hiện trạng môi trường cũng quy định về dự báo thách thức về môi trường và từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp bảo vệ môi trường. Sáu là, trong quản lý nhà nước về môi trường việc tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường là một nội dung quan trọng. (Điều 139). Thực tiễn cũng cho thấy, trong các Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, báo cáo hiện trạng môi trường chuyên đề không chỉ đánh giá hiện trạng môi trường mà còn có những dự báo diễn tiến của hiện trạng ô nhiễm môi trường, môi trường không khí và đưa ra giải pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Liên quan đến dự báo ÔNMTKK và những tác động của nó, Bộ TN và MT đã công bố Kịch bản về ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó dự báo về tác động của biến đổi khí hậu và hậu quả của nó đối với Việt Nam. Kịch bản dự báo, nếu đến năm 2100, nhiệt độ trung bình của trái đất nâng lên 2 đến 3 0c thì nước biển sẽ dâng cao khoảng 1m. Khi đó khoảng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long và 1/3 đồng bằng Sông Hồng sẽ chìm dưới mực nước biển. Đồng thời Bộ cũng đã công bố Báo cáo chuyên đề về hiện trạng môi trường không khí Việt Nam năm 2013 để đánh giá và dự báo về hiện trạng môi trường không khí ở Việt Nam và đưa ra các phương hướng, giải pháp để ứng phó hiệu quả với ô nhiễm môi trường không khí. 95

101 Còn về các mô hình dự báo trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường chưa nhiều. Mỗi lĩnh vực đặc thù đều áp dụng những công cụ/mô hình riêng, đáp ứng những yêu cầu cụ thể, những mô hình này chủ yếu chỉ áp dụng cho chuyên môn sâu. Ví dụ, trong lĩnh vực thủy văn để dự báo lũ, mô hình MARINE của Pháp, mô hình Mike11 (của Đan Mạch), mô hình SSARR, mô hình TANK, được sử dụng, trong dự báo thời tiết thì sử dụng các mô hình về dự báo thời tiết,... Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường, đã có một số mô hình dự báo được áp dụng trong nghiên cứu chính sách, quy hoạch phát triển như: mô hình I-O để phân tích tác động môi trường-kinh tế để phân tích mức độ phát thải của một số khí nhà kính, nước thải của từng ngành, từng khu vực khác nhau của các tác giả Bui Trinh, Francisco T. Secretario, Kim Kwangmun, Le Ha Thanh và Pham Huong Giang [63]. Qua đó có thể thấy công tác dự báo ô nhiễm môi trường, môi trường không khí ở nước ta ngày càng được quan tâm từ hoàn thiện các chính sách, pháp luật cho đến triển khai thực hiện các mô hình dự báo và đã mang lại những kết quả nhất định trong thay đổi nhận thức cũng như hành động của mọi người về biến đổi khí hậu, về bảo vệ môi trường không khí,.. Chính vì tầm quan trọng của dự báo nên hoạt động này cần phải chính xác nhất có thể, bởi sau dự báo đó là niềm tin của người dân, là chi phí, là nhân lực để thực hiện các kết quả dự báo được. Bên cạnh những thành công mang lại, hoạt động dự báo từ chính sách, các quy định pháp luật cho đến thực tiễn triển khai tại Việt Nam vẫn còn những bất cập nhất định. Cụ thể các quy định này vẫn tản mạn nằm ở nhiều nội dung khác nhau. Ngoài quy định về dự báo tác động của biến đổi khí hậu, pháp luật môi trường chưa có những quy định cụ thể để dự báo về hiện trạng môi trường không khí: về ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm bụi, ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí thải, ô nhiễm khói, Luật cũng chỉ quy định về dự báo về nguồn thải rắn nhưng chưa có quy định dự báo về khí thải, Có thể khẳng định, Luật BVMT năm 2014 chưa có quy định cụ thể nào riêng về dự báo môi trường không khí, khí thải Quy định về áp dụng các công cụ kinh tế nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải sử dụng tổng hợp các công cụ, trong đó công cụ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế bao gồm: quỹ bảo vệ môi trường, thuế, phí BVMT đối với khí thải, trợ cấp môi trường, nhãn sinh thái, hạn ngạch khí thải, Những năm gần đây, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các công cụ này trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí thể hiện qua việc nhà nước ta ban hành hàng 96

102 loạt các chính sách, các quy định về ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực thân thiện môi trường, sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường. Đồng thời quy định về đánh thuế cao, đối với việc đầu tư vào lĩnh vực hay sử dụng sảm phẩm không thân thiện môi trường. Tuy nhiên, có thể thấy các chính sách, pháp luật về vấn đề này vẫn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ và vẫn còn những thiếu sót, bất cấp. Cụ thể như chúng ta biết Quỹ bảo vệ Môi trường cũng là một công cụ kinh tế quan trọng để kiểm soát ô nhiễm môi trường vì các nguồn thu về Quỹ sẽ được đầu tư trở lại cho kiểm soát ô nhiễm môi trường, tuy nhiên: Một là, đối với các Quỹ Bảo vệ môi trường cấp địa phương, mặc dù đã được thành lập nhưng hầu hết chưa hoạt động được. Nguyên nhân là do chưa tách biệt giữa quản lý hành chính và quản lý tài chính, nên Quỹ địa phương đang được quản lý chặt chẽ về mặt kinh tế - chính sách. Nguồn vốn cho Quỹ địa phương còn hạn chế, do Sở Tài chính quyết định, phần có thể cho vay chỉ dao động từ tỷ đồng nên không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp vay vốn đầu tư BVMT. Hai là, với Quỹ BVMT Việt Nam, hiện vẫn chưa có những quy định cụ thể liên quan tới việc xác định khoản thu đền bù thiệt hại môi trường từ ngân sách nhà nước chuyển cho Quỹ, điều này liên quan trước hết tới việc quy định bóc tách khoản thu này thành một khoản thu riêng trong danh mục thu ngân sách nhà nước. Nguồn tạo Quỹ bao gồm cả các loại phí BVMT đối với nước thải, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản, phí BVMT và phí BVMT đối với khí thải. Tuy nhiên, chưa có quy định về thu phí đối với khí thải.[32]. Phí BVMT đối với khí thải (hay phí khí thải) là loại phí đánh vào hành vi xả thải các loại khí gây ô nhiễm môi trường, được thu dựa trên khối lượng khí ô nhiễm thải ra môi trường. Cũng như các loại phí BVMT khác, mục đích của phí khí thải là nhằm điều chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân hướng tới giảm thiểu việc xả khí thải gây ô nhiễm môi trường, đồng thời tạo nguồn thu cho BVMT. Đây là công cụ kinh tế trực tiếp nhằm đưa chi phí BVMT vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền". Phí BVMT đối với khí thải đã được áp dụng tương đối rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển (Mỹ, Đan Mạch, Pháp, Thụy Điển, Phần Lan...) và các nước đang phát triển (Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungari, Nga...). Đối tượng chịu phí, nhìn chung phổ biến vẫn là các loại khí SO2, NOx, CO, riêng ở Thụy Điển và một số nước khác còn đánh thuế cả CO2, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang gia tăng như hiện nay. Ở Việt Nam đến nay chưa ban hành quy định cụ thể về loại phí này [112]. Hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định về thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, chất thải rắn, khai thác khoáng sản, nhưng phí bảo vệ môi trường đối với khí thải thì mặc dù đã có dự thảo nghị định từ năm 2011, nhưng đến nay chưa được thông qua. 97

103 Về công cụ trợ cấp môi trường. Đây là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước châu Âu, thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Trợ cấp môi trường gồm các dạng sau: trợ cấp không hoàn lại, các khoản cho vay ưu đãi, cho phép khấu hao nhanh, ưu đãi thuế. Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện, khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường. Trợ cấp này chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài có thể dẫn đến phi hiệu quả kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Ở Việt Nam, vấn đề này qua khảo cứu cho thấy vẫn chưa được quy định nhiều và thực tiễn áp dụng cũng còn nhiều hạn chế do trái với nguyên tắc được nêu ở trên. Về nhãn sinh thái. Nhãn sinh thái, còn gọi là nhãn môi trường, là loại nhãn mác cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện hơn với môi trường của sản phẩm so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Trên thế giới, việc các sản phẩm được dán nhãn sinh thái là rất quen thuộc. Người tiêu dùng sẵn sàng bỏ ra thêm từ 10% 17% chi phí để mua các sản phẩm có dán nhãn sinh thái. Các nước phát triển trên thế giới đều rất chú trọng đến mức độ thân thiện với môi trường của các sản phẩm. Việt Nam là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu lớn như thủy sản, dệt may hay nông sản. Các mặt hàng xuất khẩu đã mang lại cho nước ta một nguồn thu ngoại tệ lớn nhưng nếu so với tiềm năng thì các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể làm nhiều hơn thế. Một công cụ giúp cho các sản phẩm của Việt Nam tăng giá trị trên thị trường quốc tế chính là nhãn sinh thái. Theo thống kê của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, tại Việt Nam chỉ có khoảng 5% hàng hóa đủ tiêu chuẩn để dán nhãn sinh thái và tính đến nay thì chưa có mặt hàng nào được dán nhãn sinh thái. Việt Nam cũng đang xây dựng những tiêu chuẩn để có thể dán nhãn sinh thái cho hàng hóa. Theo kế hoạch thì đến năm 2020 sẽ có 10% số sản phẩm xuất khẩu và 50% hàng hóa tiêu dùng nội địa được cấp nhãn sinh thái. Như vậy, con đường để cho các hàng hóa Việt Nam được chứng minh là đủ các tiêu chuẩn môi trường còn rất dài. [78]. Còn về pháp luật thì Việt Nam cũng đã có những quy định pháp luật về vấn đề này mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, như: Quyết định 253/QĐ-BTNMT Chương trình cấp nhãn sinh thái năm 2009 hay Thông tư số 41/2013/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về trình tự, thủ tục, chứng nhận nhãn sinh thái cho sản phẩm thân thiện môi trường ngày 02/12/2013. Trong Điều 44 Luật Bảo vệ Môi trường 2014 có quy định về sản xuất, sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường, trong đó có chứng nhận về nhãn sinh thái. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, như ISO14000, SA 8000 cũng được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kích thích các tổ chức kinh tế tự tham gia 98

104 vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí vì những lại ích do các công cụ kinh tế trong đó có các tiêu chuẩn môi trường quốc tế mang lại. Các công cụ kinh tế trên được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý quan trọng để các tổ chức, cá nhân lựa chọn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh theo hướng thân thiện với môi trường không khí. Mặc dù vậy, thực tiễn ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất kinh doanh tại nhiều nơi cho thấy còn rất nhiều vấn đề cần phải hoàn thiện để nâng cao hiệu quả của các công cụ này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Ví dụ: thực tiễn này có thể cho chúng ta thấy dường như các công cụ kinh tế ở Việt Nam vẫn chưa đủ sức nặng để hướng các chủ thể sản xuất kinh doanh lựa chọn đầu tư theo hướng thân thiện môi trường, Quy định về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và cơ chế phát triển sạch nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Quy định về giảm thiểu biến đổi khí hậu Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí không chỉ áp dụng với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí tầm gần mà còn áp dụng cả với các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí tầm xa [40]. Theo số liệu thống kê thì Việt Nam không phải là một trong 10 quốc gia gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng lại là 1 trong 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu mà nguyên nhân của biến đổi khí hậu là do các khí thải nhà kính gây ra. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát hiệu quả các khí thải nhà kính cũng như các chất làm suy giảm tầng ozon. Ở phạm vi quốc tế và khu vực, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ozon. Còn ở Việt Nam vấn đề này đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong những năm vừa qua. Cụ thể Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng năm 2013 về bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp đó Điều 63 Hiến pháp năm 2013 cũng thể chế hóa tương đối rõ quan điểm này, như: 1. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Tiếp đó vấn đề này tiếp tục được cụ thể hóa từ Điều 39 đến Điều 48 Chương IV Luật Bảo vệ Môi trường năm Có thể thấy, bên cạnh những quy định chung về trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong ứng phó với biến đổi khí hậu, Luật quy định nhằm quản lý giảm thiểu tối đa các khí thải nhà kính và các chất làm suy giảm tầng ozon nhằm thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Cụ thể: lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 40); 99

105 Quản lý phát thải khí nhà kính (Điều 41); Quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn (Điều 42); Phát triển năng lượng tái tạo (Điều 43); Sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường (Điều 44); Thu hồi năng lượng từ chất thải (Điều 45); Quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 46); Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 47); Hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 48). Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được quy định trong Luật Năng lượng nguyên tử 2008 và Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả 2012, Luật Phòng chống thiên tai năm 2013, Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng quy định cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu là Cục Khí tượng thủy văn và ứng phó với biến đổi khí hậu, thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật môi trường hiện hành chưa phân định rõ quy định nào là tập trung vào thích ứng với biến đổi khí hậu, còn quy định nào tập trung vào giảm thiểu biến đổi khí hậu. Điều đó dẫn tới sự thiếu logic trong các quy định pháp luật ảnh hưởng đến quá trình thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay. Trong khi đó bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi, về cơ chế phát triển sạch chưa được đồng bộ và chưa điều phối, tổ chức kết nối chặt chẽ giữa các Ban chỉ đạo về ứng phó với biến đổi khí hậu của các ngành ở trung ương cũng như địa phương với nhau. Theo Báo cáo chuyên đề về ô nhiễm môi trường không khí do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2013 cho thấy ở Việt Nam, hiện tượng biến đổi khí hậu đã xuất hiện trong những năm gần đây, như hiện tượng sương mù quang hóa. Hiện tượng này đặc biệt rõ nét ở các đô thị lớn như Hà Nội do sự cộng hưởng của nhiều nguồn ô nhiễm không khí.[107, 149] [107, 151]. Hơn nữa, ảnh hưởng các hiện tượng khô hạn kéo dài tại Ninh Thuận, Bình Thuận, bão, mưa, lũ thường xuyên xảy ra như trận mưa lịch sử xảy ra tại Hà Nội năm 2008, gió lớn lịch sử tại Hà Nội năm 2015, hay mua lịch sử tại Quảng Ninh, gây ảnh hưởng lớn đến con người và sinh vật; hay bão Hải Yến có sức gió mạnh gấp 3 lần cơn bão Katrina đổ vào nước Mỹ. Cơn bão này đã đổ bộ vào Philipin gây thiệt hại lớn cho nước này về người và của, đồng thời ảnh hưởng đến cả Trung Quốc và Việt Nam mà nguyên nhân của cơn bão là do biến đổi khí hậu gây ra [123]. Điều này cho thấy cần phải có sự tập trung hơn trong hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức phòng ngừa, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bằng cách kiểm soát giảm thiểu các nguồn thải khí nhà kính và xây dựng các bể hấp thụ khí nhà kính, và một trong các cách thức thực hiện các hoạt động này là thông qua cơ chế phát triển sạch Về cơ chế phát triển sạch Để phòng ngừa, ngăn chặn các chất thải nhà kính ra ngoài môi trường, quy định về cơ chế phát triển sạch (CDM) và phát triển thị trường mua bán quyền phát thải đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Qua nghiên cứu có 100

106 thể thấy, CDM là một cơ chế hợp tác quốc tế theo Nghị định thư Kyoto nhằm làm giảm sự phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu thông qua cơ chế đầu tư giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển; tăng cường khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp của các nước phát triển thực hiện các dự án giảm phát thải khí nhà kính. Có hai phương thức CDM, đó là CDM cho giảm khí nhà kính (CDM thông thường hay CDM năng lượng) và CDM cho hấp thụ khí nhà kính bằng các bể hấp thụ (trồng rừng hoặc tái trồng rừng theo CDM hay AR - CDM). Việc giảm phát thải được tính toán bằng mức CO 2 giảm đi của dự án sau khi áp dụng công nghệ sạch so với mức phát thải cơ sở (baseline). Việc thực hiện cơ chế phát triển sạch là cơ sở để hình thành thị trường mua bán phát thải cácbon. Theo Bách khoa toàn thư mở wikipedia: mua bán phát thải cacbon là một phần của mua bán phát thải nói chung. Trong loại hình "mua bán" này, mỗi quốc gia có một mức độ khí thải tối đa mà các cơ sở được cho phép "xả". Những quốc gia nào có lượng khí thải xả ra nằm dưới mức cho phép sẽ có quyền "bán" "sức chứa" khí thải còn dư của mình cho những quốc gia mà lượng khí thải vì nhiều lý do vượt quá giới hạn cho phép. Cacbonic là thành phần chủ yếu của các loại khí nhà kính khí nhà kính thải ra, nên thông thường người ta chỉ nói đến việc "buôn bán" cacbon mà thôi. Nói cách khác, các "nhà xả khói" có một mức độ khí thải tối đa mà họ được phép "xả", và họ phải chi tiền để mua "quyền xả khói" nhằm duy trì hoạt động của các cơ sở của mình. Và những cơ sở nào xả khí thải thấp hơn mức tối đa cho phép có thể bán "sức chứa khí thải" còn dư cho những ai cần "mua". Hệ thống này giúp cho những cơ sở sản xuất có động lực tìm cách giảm bớt số khí thải để đỡ tốn chi phí "mua" quyền được xả khí. Cơ chế của hệ thống cũng giúp những tổ chức "không xả khói" có thể tham gia vào quá trình cải tiến và nâng cao hiệu quả của "thị trường" buôn bán cacbon này. Ở Việt Nam, để thực hiện các cam kết theo Nghị định thư Kyoto nhằm hướng tới phát triển bền vững, đến nay các chính sách, pháp luật về cơ chế phát triển sạch nói chung đã khá hoàn thiện. Cụ thể năm 2006, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 10/2006/TT-TNMT hướng dẫn xây dựng dự án cơ chế phát triển sạch trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch. Đến năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1775/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới. Để thúc đẩy thực hiện cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam theo hướng ngày càng thực chất, nhanh chóng và hiệu quả hơn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BTNMT ngày 24 tháng 3 năm 2014 quy định việc xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê 101

107 duyệt dự án Cơ chế phát triển sạch theo Nghị định thư Kyoto. Đến nay quan điểm về phát triển bền vững, phát triển sạch tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 Luật Bảo vệ Môi trường năm Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho thực hiện phát triển sạch cũng như thị trường mua bán cacbon tại Việt Nam. Tác giả cho rằng việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về cơ chế phát triển sạch và hình thành thị trường cácbon đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, đặc biệt là kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa. Với những hiệu quả với môi trường không khí và với những lợi ích về kinh tế không hề nhỏ với các doanh nghiệp từ việc thực hiện phát triển sạch và thị trường mua bán quyền phát thải. Việc hoàn thiện chính sách pháp luật về vấn đề này sẽ giúp xây dựng được các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên tính toán chi phí và lợi ích để các chủ thể lựa chọn việc tuân thủ pháp luật hơn là chống lại các quy định pháp luật. Trên thực tế tại Việt Nam, theo tài liệu Thông tin tóm tắt cơ chế phát triển sạch và thị trường Cácbon quốc tế, của Ban Chỉ đạo thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu và Nghị định thư kyoto tại Việt Nam năm 2012 thì tính đến ngày 31/10/2012, Việt Nam đã có 160 dự án được Ban chấp hành CDM quốc tế (goi tắt là EB) công nhận là dự án CDM, tổng lượng khí nhà kính được giảm khoảng 76 triệu tấn CO2 trong thời kỳ tín dụng và 4 Chương trình hoạt động dự án thủy điện nhỏ Việt Nam (gọi tắt là PoA) với tổng lượng CERs sẽ được cấp, Việt Nam được xếp thứ 4 trên thế giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận và đăng ký; xếp thứ 9 trên thế giới về số lượng CERs đã được EB cấp; xếp thứ 2 trên thế giới về số lượng PoA. Mặc dù được đánh giá là một trong 10 nước có tiềm năng nhất về CDM, nhưng hiện nay việc mua bán, trao đổi CERs tại Việt Nam còn hạn chế. Thị trường CDM trên thế giới đang hoạt động khá mạnh mẽ, như: tại Ấn Độ, Trung Quốc, Brazin, liên minh châu Âu, Anh hay Australia, nhưng đối với Việt Nam, hình thức mua bán CERs này còn rất mới nên giá thành các CERs còn khá rẻ và tính rủi ro cao [38]. Sở dĩ có có thực tế này là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các quy định pháp luật, như: Một là, theo quy định tại Thông tư số 15/2014/TT-BTNMT ngày 24 tháng 3 năm 2014 quy định việc xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê duyệt dự án Cơ chế phát triển sạch theo Nghị định thư Kyoto thì các quy định khá cụ thể và giảm về thời gian thực hiện tuy nhiên tổng thời gian thực hiện cho hai thủ tục vẫn còn rất dài (50 ngày) so với Australia thì thời gian này từ ngày. Trong thực tế thời gian này còn bị kéo dài hơn rất nhiều, để có thư xác nhận ý tưởng chủ đầu tư phải mất đến 6 tháng và thời gian cấp thư phê duyệt dự án lên đến hàng năm; Hai là, theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp không quy định việc hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án CDM và do vậy, nhà đầu tư không được 102

108 hưởng những ưu đãi theo quy định của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg). Thủ tục được hưởng những ưu đãi rất phức tạp vì không có cơ chế tự động áp dụng cho việc hưởng ưu đãi, chưa có hướng dẫn cụ thể về việc hưởng ưu đãi đối với trường hợp nhà đầu tư công nghệ vào Việt Nam để thực hiện dự án CDM; ba là, việc tính toán hệ số phát thải là căn cứ để doanh nghiệp cân đối tài chính, quyết định có nên đầu tư thực hiện dự án CDM. Tuy nhiên, việc tính toán chính xác lượng khí phát thải có thể thu được lại không phải lúc nào cũng hoàn toàn chính xác như dự kiến Thực trạng các quy định về phát hiện ô nhiễm môi trƣờng không khí Phát hiện ÔNMTKK là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong việc theo dõi, thanh tra kiểm tra phát hiện sự biến đổi của thành phần môi trường không khí nhằm ngăn chặn, xử lý, phục hồi hiện trạng môi trường không khí. Để KSÔN môi trường không khí được hiệu quả việc phát hiện ô nhiễm là rất quan trọng, nhưng để có cơ sở cho việc phát hiện môi trường không khí có bị ô nhiễm hay không, ô nhiễm ở mức độ nào thì quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí là cơ sở để xác định Các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường không khí Quan trắc môi trường là hoạt động sử dụng hệ thống thiết bị kỹ thuật đặc biệt để thu thập các chỉ tiêu vật lý (tiếng ồn), chỉ tiêu hóa học (hàm lượng khói, bụi, khí độc hại...), xác định nguồn gây ô nhiễm không khí, mức độ gây ô nhiễm không khí, sự lan truyền các chất gây ô nhiễm trong không khí, dự báo diễn biến tình hình môi trường không khí (khoản 20 Điều 3) [83]. Có thể thấy để kiểm soát được ÔNMTKK việc đánh giá được hiện trạng môi trường không khí đóng vai trò rất quan trọng, muốn đánh giá được hiện trạng môi trường không khí thì cần phải tiến hành quan trắc môi trường không khí. Theo Luật BVMT năm 2005, hoạt động quan trắc định kỳ được quy định từ Điều 94 đến Điều 97 đã quy định rất rõ trách nhiệm quan trắc môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng là hoạt động được thực hiện bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; người quản lý, vận hành cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. 103

109 Thông qua việc sử dụng hệ thống quan trắc môi trường không khí, sẽ có đánh giá chính xác về hiện trạng môi trường không khí, từ đó giúp xác định được mức độ ô nhiễm môi trường không khí, tìm ra được nguyên nhân và biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường không khí, đồng thời đánh giá được khả năng diễn biến của nó trong tương lai. Để bảo đảm cho hoạt động quan trắc môi trường và đánh giá hiện trạng môi trường, trong đó có môi trường không khí được chính xác, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tác động môi trường, trong đó có mạng lưới quan trắc tác động đến môi trường không khí. Theo quy hoạch này đến 2020 nước ta sẽ xây dựng 58 trạm quan trắc môi trường không khí tự động [120]. Còn trong Báo cáo hiện trạng môi trường không khí quốc gia thì đến năm 2013, hệ thống trạm quan trắc môi trường không khí tự động do Bộ TN và MT quản lý gồm 2 mạng lưới. Thứ nhất là, mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn và môi trường quốc gia, gồm 10 trạm quan trắc chất lượng không khí tự động và các điểm quan trắc khí tượng do các đài khí tượng thủy văn thực hiện tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Vinh, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Pleiku, Cần Thơ, Sơn La. Thứ hai là, mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia do Tổng cục Môi trường quản lý gồm 7 trạm, như: Trạm Nguyễn Văn Cừ, Trạm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trạm Khánh Hòa, trạm Huế, trạm Phú Thọ và trạm Quảng Ninh vận hành từ tháng 12 năm Bên cạnh đó còn hệ thống trạm quan trắc không khí tự động cố định do địa phương quản lý, như Vĩnh Phúc có 01 trạm vận hành năm 2013, Đồng Nai có 02 trạm vận hành năm Có thể thấy, mạng lưới các trạm quan trắc tự động đã và đang được lắp đặt và vận hành trong toàn quốc ở cả cấp Trung ương và địa phương để giám sát liên tục diễn biến chất lượng môi trường không khí xung quanh. [107, 6]. Hệ thống quan trắc môi trường không khí này là cơ sở quan trọng để góp phần giữ cho môi trường không khí được trong lành. Thực tiễn đó có thể thấy Nhà nước ta những năm qua khá quan tâm đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Sự quan tâm này còn được thể hiện qua các quy định pháp luật. Theo Luật BVMT năm 2014 từ Điều 121 đến Điều 127 thì quan trắc môi trường không khí là quá 104

110 trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi trường môi trường không khí, các yếu tố tác động lên môi trường không khí nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi trường. Quan trắc môi trường, trong đó có môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đánh giá hiện trạng môi trường không khí và là cơ sở để phòng ngừa và phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách nhiệm theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và công bố công khai thông tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo, xử lý kịp thời. Nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc điểm của khí thải; việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường. Bộ TN và MT ban hành danh mục và hướng dẫn thực hiện quan trắc chất phát thải đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải; Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải (khoản 3 Điều 64 Luật BVMT năm 2014). Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc danh mục chịu trách nhiệm quan trắc chất phát thải phải bảo đảm tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật môi trường và quy định của pháp luật có liên quan. Môi trường không khí được quan trắc bao gồm không khí trong nhà, không khí ngoài trời; Tiếng ồn, độ rung, bức xạ, ánh sáng; Phóng xạ; khí thải (khoản 2 Điều 122 Luật BVMT năm 2014). Để đảm bảo việc quan trắc môi trường không khí có tính hệ thống và hiệu quả, pháp luật hiện hành xây dựng các chương trình quan trắc môi trường, trong đó có môi trường không khí. Chương trình quan trắc môi trường quốc gia gồm chương trình quan trắc môi trường lưu vực sông và hồ liên tỉnh, vùng kinh tế trọng điểm, môi trường xuyên biên giới và môi trường tại các vùng có tính đặc thù. Chương trình quan trắc môi trường cấp tỉnh gồm các chương trình quan trắc thành phần môi trường trên địa bàn. Chương trình quan trắc môi trường của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gồm quan trắc chất phát thải và quan trắc các thành phần môi trường theo quy định của pháp luật. Tương ứng với các Chương trình quan trắc này là các hệ thống quan trắc môi trường gồm: a) Quan trắc môi trường quốc gia; b) Quan trắc môi trường cấp tỉnh; c) Quan trắc môi trường tại cơ 105

111 sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Đối với môi trường không khí, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải (Điều 64 Luật BVMT năm 2014). Các tổ chức tham gia hệ thống quan trắc môi trường gồm: a) Tổ chức lấy mẫu, đo đạc mẫu môi trường tại hiện trường; b) Phòng thí nghiệm, phân tích mẫu môi trường; c) Tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị quan trắc môi trường; d) Tổ chức quản lý, xử lý số liệu và lập báo cáo kết quả quan trắc môi trường. Hệ thống quan trắc môi trường phải được quy hoạch đồng bộ, có tính liên kết, tạo thành mạng lưới thống nhất và toàn diện. Về thẩm quyền quan trắc môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Bộ TN và MT chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra hoạt động quan trắc môi trường không khí trên phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện chương trình quan trắc môi trường quốc gia. UBND cấp tỉnh tổ chức chương trình quan trắc môi trường trên địa bàn, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp và Bộ TN và MT về kết quả quan trắc môi trường. Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thực hiện chương trình quan trắc phát thải và các thành phần môi trường; báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về BVMT theo quy định của pháp luật. Về điều kiện hoạt động quan trắc môi trường. Tổ chức có đủ kỹ thuật viên về chuyên ngành quan trắc môi trường và trang bị kỹ thuật cần thiết được tham gia hoạt động quan trắc môi trường. Số liệu quan trắc môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng sẽ được quản lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể Bộ TN và MT quản lý số liệu quan trắc môi trường; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về quan trắc môi trường; công bố kết quả quan trắc môi trường quốc gia; hướng dẫn nghiệp vụ và hỗ trợ kỹ thuật quản lý số liệu quan trắc môi trường. UBND cấp tỉnh quản lý số liệu quan trắc môi trường và công bố kết quả quan trắc môi trường của địa phương. Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quản lý số liệu quan trắc môi trường và công bố kết quả quan trắc môi trường theo quy định của pháp luật. Qua đó có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành đã quy định có những quy định tương đối cụ thể về quan trắc môi trường, từ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh, Qua quan trắc môi trường chúng ta có thể đánh giá được hiện trạng môi trường không khí, phát hiện ÔNMTKK và mức độ ô nhiễm không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí. Mặc dù vậy, pháp luật môi trường hiện hành quy định chung về quan trắc môi trường thì vấn đề đặt ra là giữa các thành phần môi trường đất, nước, không khí tính chất lý hóa, không hẳn giống nhau nên việc tổ chức thực hiện rất khó khả thi trên thực tiễn. Hơn nữa, thực tiễn quan 106

112 trắc môi trường không khí ở nước ta những năm qua cho thấy vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn bảo vệ môi trường không khí Các quy định về thông tin về tình hình môi trường không khí Hoạt động thông tin về tình hình môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Theo quy định tại Điều 102, 103, 104 Luật BVMT 2005, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có trách nhiệm xác định các khu vực mà mức độ ÔNMTKK đang gia tăng rồi thông báo cho các tổ chức, cá nhân, qua đó phòng ngừa được các sự cố môi trường không khí có thể xảy ra. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm thống kê, lưu trữ dữ liệu, thông tin về môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước (Điều 102); trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin về môi trường của các tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh; trách nhiệm báo cáo và cung cấp thông tin của cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường; trách nhiệm cung cấp thông tin về tình hình môi trường thuộc lĩnh vực các Bộ quản lý cho Bộ TN và MT (Điều 103). Đồng thời Luật BVMT cũng quy định về các loại thông tin, dự lệu môi trường phải công khai (Điều 104, LBVMT 2005). Tiếp đó, trong Luật BVMT năm 2014 đã củng cố thêm một bước các quy định về thông tin về tình hình môi trường, làm rõ cách hiểu về thông tin môi trường, thông tin môi trường không khí. Thông tin môi trường không khí là số liệu, dữ liệu về môi trường không khí dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự (khoản 20 Điều 3 Luật BVMT năm 2014).Theo Luật BVMT năm 2014 có hai phương thức để công chúng tiếp cận thông tin môi trường không khí: Một là, các cơ quan nhà nước, các cơ sơ sản xuất, kinh doanh chủ động công khai thông tin theo quy định và mọi người đều có thể tiếp nhận những thông tin này. Đối với phương thức này, pháp luật quy định rõ những thông tin buộc phải công khai, hình thức công khai, người có trách nhiệm phải công khai (Điều 131 Luật BVMT 2014). Ưu điểm của phương thức này là công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin mà không phải qua những thủ tục phức tạp, tốn kém, nhưng nó cũng có hạn chế là nội dung và chất lượng thông tin lại tùy thuộc vào các cơ quan nhà nước, nhà nước công bố cái gì dân biết cái đó. Ví dụ: vụ Fomosa xả thải gây ô nhiễm, suy thoái tài nguyên môi trường biển, trường hợp này cơ quan nhà nước có thẩm quyền công cố thông tin tình hình môi trường cho người dân. Theo đó ngày 27 tháng 4 năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả điều tra sơ bộ, khoanh vùng hai nhóm nguyên nhân là độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người và hiện tượng tảo nở hoa. Tiếp đó ngày 30 tháng 6 năm 2016, Chính phủ tổ chức họp báo công bố thông tin cá chết là do chất thải của Fomosa thải ra.tuy nhiên, qua vụ việc này chính Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng thừa nhận còn chậm trễ, lúng túng trong việc xử lý và cung cấp thông tin cho người dân 107

113 gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, đời sống của người dân. Nhiều thông tin cấp thiết trong vụ việc này cần phải công bố sớm hơn, như: cá chết là do đâu, nước biển bị ô nhiễm đến khu vực nào, nước biển đã an toàn chưa, dựa vào đâu mà nhà nước yêu cầu fomosa bồi thường 500 triệu, số tiền này chỉ bồi thường thiệt hại cho khôi phục hiện trạng môi trường biển hay bồi thường cho cả người dân bị thiệt hại, nhiều thông tin người dân chưa nắm rõ. Trong khi đó một hãng truyền thông của Đài Loan đã sang tận Việt Nam để đưa tin về cái chết của cá và chỉ ra nguyên nhân là do Fomosa gây ra, Hai là, người dân chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh cung cấp thông tin về môi trường. Theo quy định của :Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 thì các chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường, trong đó có môi trường không khí, gồm: tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp (Điều 145), của đại diện cộng đồng dân cư (Điều 146) và Chương VIII Nghị định số 19/2015/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể Luật Bảo vệ Môi trường Qua nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này có thể thấy cá nhân, hộ gia đình không được trực tiếp yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường mà phải thông qua đại diện cộng đồng dân cư hoặc các tổ chức mình tham gia để yêu cầu. Phương thức này gây khó khăn cho người dân trong quá trình tiếp cận vì phải thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho mình mà không được trực tiếp yêu cầu. Về phạm vi thông tin tình hình môi trường, trong đó có môi trường không khí, được thể hiện qua quy định những thông tin phải công khai và những thông tin người dân chủ động yêu cầu cung cấp. Những thông tin phải công khai được chuyển tải dưới hình thức (báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, và kế hoạch BVMT, các báo cáo về hiện trạng môi trường không khí, kết quả thanh tra, kiểm tra về BVMT không khí, các Kịch bản về ô nhiễm môi trường không khí và biến đổi khí hậu,... Ví dụ: thông tin về tình trạng các yếu tố cấu thành môi trường không khí, khí quyển, Về báo cáo hiện trạng môi trường, gồm: báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 05 năm một lần và hàng năm lập báo cáo chuyên đề về môi trường quốc gia. Các báo cáo này do Bộ TN và MT lập. Báo cáo hiện trạng môi trường của địa phương 05 năm một lần; căn cứ những vấn đề bức xúc về môi trường của địa phương, quyết định lập báo cáo chuyên đề về môi trường do UBND cấp tỉnh lập. Các báo cáo này cũng cung cấp các thông tin về hiện trạng môi trường, trong đó có môi trường không khí. Liên quan đến thông tin về môi trường không khí, Luật BVMT 2014 cũng quy định rõ trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước trong theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường 108

114 không khí xung quanh và công bố công khai thông tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo, xử lý kịp thời (Điều 63 Luật BVMT 2014). Trên thực tế, Bộ TN và MT đã công bố Kịch bản về ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam và Báo cáo chuyên đề về hiện trạng môi trường không khí quốc gia năm Báo cáo này, đã phân tích tương đối toàn diện và bao quát các vấn đề liên quan đến môi trường không khí từ điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cho đến các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến môi trường không khí, thực trạng môi trường không khí ở Việt Nam, nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí, Qua phân tích trên có thể thấy quy định pháp luật về thông tin tình hình môi trường, trong đó có môi trường không khí ngày càng được quy định cụ thể theo hướng mở rộng quyền tiếp cận thông tin cho người dân. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn gò bó quyền tiếp cận thông tin môi trường của người dân do phụ thuộc vào việc chủ động công bố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thông qua đại diện của người dân để tiếp cận mà người dân không được trực tiếp tiếp cận các thông tin này Các quy định về thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật môi trường không khí Trên thế giới, để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng, các quốc gia đã quy định trong pháp luật của mình tương đối cụ thể về trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể, tại Singapo đối với các chất gây ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Môi trường nước này được giao nhiệm vụ tiến hành thanh tra thường xuyên các cơ sở công nghiệp cũng như phi công nghiệp để kiểm tra việc các cơ sở đó có tuân thủ đúng tiêu chuẩn quy định về phát thải các chất gây ô nhiễm không khí hay không. Việc thanh tra thường xuyên đó sẽ giúp các cơ quan thanh tra có thể phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm quy định của pháp luật môi trường trong việc thải khí nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, các chất gây ô nhiễm, các chất độc hại thải vào môi trường không khí. Đối với các thiết bị đốt nhiên liệu cũng được kiểm soát chặt chẽ. Các chất gây ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu sinh ra trong quá trình đốt nhiên liệu là oxyt sunfurơ và khói cũng được kiểm tra rất kỹ nhằm giảm đến mức tối đa việc phát thải các chất gây ô nhiễm. [81] Còn ở Việt Nam, theo Luật Thanh tra năm 2010; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành đã quy định cụ thể hơn về thanh tra chuyên ngành và Nghị định số 35/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 7 tháng 4 năm 2009 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường thì thanh tra môi trường gồm: Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; Thanh tra Tổng cục Môi trường và Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường. Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tài nguyên và môi trường trong phạm vi quản lý 109

115 nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Sở Tài nguyên và Môi trường. Thanh tra Tổng cục Môi trường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chuyên ngành về môi trường trong phạm vi quản lý của Tổng cục Môi trường. Tiếp đó Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 cũng quy định khá rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong tổ chức thanh tra môi trường. Cụ thể: Bộ trưởng Bộ TN và MT có trách nhiệm trong kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến BVMT theo quy định của pháp luật. (khoản 9 Điều 141). Còn Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến BVMT theo quy định của pháp luật (khoản 9, Điều 142 Luật BVMT năm 2014). Bên cạnh trách nhiệm của các cơ quan trung ương, thì UBND các cấp có quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp luật có liên quan; phối hợp với UBND cấp tỉnh liên quan giải quyết các vấn đề môi trường liên tỉnh; (điểm g, khoản 1, Điều 143); Quy định về thanh tra liên quan đến môi trường không khí được tập trung vào những nội dung sau: Một là, trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (điểm d, khoản 1, Điều 41 Luật BVMT năm 2014); Hai là, trách nhiệm của UBND cấp huyện trong kiểm tra, thanh tra việc xây dựng và triển khai phương án bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường không khí tại cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung (điểm a, khoản 3 Điều 67 Luật BVMT năm 2014); Ba là, quy định về trách nhiệm của UBND cấp huyện có làng nghề là chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác BVMT làng nghề trên địa bàn (điểm a, khoản 5, Điều 70 Luật BVMT năm 2014); Bốn là, thanh tra, kiểm tra cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo đúng quy định của pháp luật và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã được ghi nhận trong Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và đang được triển khai trên thực tiễn. Năm là, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BVMT không khí; thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về BVMT không khí. (khoản 7, Điều 139 Luật BVMT năm 2014). 110

116 Qua phân tích trên có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành quy định khá cụ thể về thanh tra, kiểm tra môi trường từ Bộ TN và MT đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, và UBND các cấp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra môi trường, trong đó có môi trường không khí ở các cấp độ khác nhau này sẽ góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Luật BVMT vẫn còn tản mạn, phân tán, chưa có quy định riêng mang tính hệ thống về thanh tra môi trường không khí. Các quy định về thanh tra trong Luật môi trường chưa có sự rõ ràng so với Luật Thanh tra năm Về thực tiễn hoạt động thanh tra môi trường. Theo thông tin tại Hội nghị triển khai công tác sáu tháng cuối năm của Tổng cục Môi trường ngày 2 tháng 7 năm 2015, từ đầu năm đến nay Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên & Môi trường) đã ban hành trên 500 kết luận thanh tra đối với các cơ sở, khu công nghiệp (trên cả nước) và xử phạt hơn 200 tổ chức, cá nhân vi phạm, với tổng số tiền phạt là trên 20 tỉ đồng [18]. Mặc dù vậy không khó khăn để thấy rằng số liệu này vẫn chưa phản ánh một cách thực chất, đầy đủ các hành vi làm ô nhiễm môi trường do các tổ chức, cá nhân gây ra. Đồng thời thực tiễn cũng cho thấy tổ chức và thực hiện thanh tra môi trường vẫn còn những bất cập từ chính các quy định pháp luật cũng như thực tiễn. Ví dụ hoạt động thanh tra chồng chéo, thiếu phối hợp giữa thanh tra Bộ, thanh tra Tổng cục và thanh tra Sở, vẫn có những tiêu cực trong quá trình thành tra ảnh hưởng đến xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường Thực trạng các quy định về ngăn chặn ô nhiễm môi trƣờng không khí Theo Từ điển tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng 2006 thì ngăn chặn là chặn lại ngay từ đầu không để cho gây tác hại [130, 671]. Còn theo Từ điển tiếng Việt nhà xuất bản Bách khoa 2007 thì ngăn chặn là giữ, chặn lại không cho phát sinh, phát triển gây hại. [127, 515]. Ngăn chặn ÔNMTKK là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong việc dùng các biện pháp để dừng các hành vi làm ô nhiễm môi trường, giữ không cho ô nhiễm môi trường lan rộng gây tác hại với con người, sinh vật và hệ sinh thái. Ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm không khí là là một trong những hình thức pháp lý của KSÔN không khí nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí cũng như hậu quả xấu do ô nhiễm môi trường không khí gây nên, đồng thời nhanh chóng tìm ra các giải pháp khôi phục lại hiện trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm. Ở Trung Quốc, để ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí, nước này đã thông qua Luật về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí quyển năm 2000, gồm: 7 chương và 66 điều. Luật này được hình thành nhằm mục đích ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí quyển, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh sống của con người và môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe con người và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Trong đó có quy định về ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm khí quyển từ việc đốt than. Các cơ quan 111

117 nhà nước, chính quyền địa phương có trách nhiệm áp dụng các biện pháp trong việc sản xuất, sử dụng năng lượng sạch. Các cơ sở sản xuất xả thải khí SO 2 vượt quá tiêu chuẩn quy định phải có biện pháp để kiểm soát ô nhiễm. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến để khử lưu huỳnh và loại bỏ bụi. Chương ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí thải do khí, bụi và mùi hôi quy định khí thải nảy sinh trong quá trình sản xuất công nghiệp được thu hồi để sử dụng nếu khí đó thải vào khí quyển thì phải qua hệ thống kiểm soát. Các thành phố trực thuộc Trung ương phải có các biện pháp để trồng rừng, tăng cường quản lý hoạt động xây dựng, mở rộng diện tích mặt đất trải nhựa, kiểm soát chất thải và sử dụng các biện pháp giao thông sạch để giảm lượng bụi bẩn, ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực đô thị. Các đơn vị hoạt động xây dựng hoặc hoạt động tạo ra bụi phải có biện pháp ngăn ngừa phù hợp với quy định của địa phương về bảo vệ môi trường. [95]. Có thể thấy Trung Quốc đã có những biện pháp tương đối chăt chẽ, cụ thể để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên thực tế ô nhiễm môi trường không khí tại Bắc Kinh và nhiều thành phố khác của Trung Quốc cho thấy nước này còn nhiều việc phải làm để có thể kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí hiệu quả. Còn ở Việt Nam, để ngăn ngăn chặn ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Để hạn chế, ngăn chặn được ô nhiễm thì các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát. Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải khí tác động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí theo quy định của pháp luật (Điều 62) [83]. Cụ thể: Thực trạng quy định về nghĩa vụ ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải di động của chủ nguồn thải Về nguồn thải động, những năm gần đây các hoạt động giao thông vận tải là nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là tại các đô thị và có xu hướng ngày càng tăng dần do quá trình phát triển và giao lưu kinh tế. Thực tiễn số liệu thống kê cho thấy, Việt Nam có khoảng trên 40 triệu xe máy, mô tô và khoảng 2 triệu ô tô. Số lượng phương tiện giao thông khổng lồ này nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị. Để ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí từ hoạt động giao thông vận tải này hiện nay nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định về vấn đề này, như: Một là, phương tiện giao thông cơ giới phải được cơ quan đăng kiểm xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới được đưa vào sử dụng. Phương tiện giao thông, máy móc, thiết bị, công trình xây dựng phát tán bụi, khí thải phải có bộ phận lọc, giảm thiểu khí thải, thiết bị che chắn hoặc biện pháp khác để giảm thiểu bụi bảo đảm quy 112

118 chuẩn kỹ thuật môi trường. Phương tiện giao thông không đáp ứng được các điều kiện này thì không được tham gia lưu thông. Hai là, tổ chức, cá nhân quản lý tuyến đường có mật độ phương tiện tham gia giao thông cao gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải có biện pháp giảm thiểu, đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Ba là, pháp luật quy định các chủ phương tiện giao thông đường sắt, đường bộ, đường thủy không được thải khói, bụi, khí độc quá giới hạn cho phép vào không khí. Các chủ phương tiện giao thông không được gây tiếng ồn quá giới hạn cho phép. Ví dụ: các loại xe hai bánh có động cơ dưới 125cc không được gây ồn vượt quá 79dba, còn các loại xe tải và xe buýt có động cơ trên 1000cc thì không được gây ồn quá 89 dba. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các phương tiện gây ô nhiễm môi trường không khí không tại các đô thị là các phương tiện công cộng, như xe buýt là một ví dụ điển hình. Bốn là, các chủ phương tiện có chạy xăng phải sử dụng xăng không pha chì nhằm giảm thiểu lượng chì thải vào không khí xung quanh theo quy định. Hiện nay, Việt Nam đã loại bỏ xăng pha chì A83 và thay vào đó là sử dụng xăng A92, A95 không pha chì, đặc biệt những năm gần đây việc sản xuất và sử dụng xăng sinh học E5 cũng ngày càng tăng góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên hiện nay cả nước có 6 nhà máy sản xuất xăng sinh học lại đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động do giá dầu giảm lên giá xăng sinh học phải giảm theo. Qua đó có thể thấy, mặc dù các quy định về giảm thiểu ngăn chặn, hạn chế ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải động được quy định khá cụ thể, song thực tiễn vẫn còn nhiều cá nhân, tổ chức sử dụng phương tiện giao thông còn vi phạm các quy định về tiếng ồn, khí thải, vượt quá quy chuẩn cho phép, nhưng chưa bị xử lý triệt để. Bên cạnh đó thực tế cũng cho thấy tại các thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh việc người dân tận dụng xe máy được sản xuất từ cuối những năm 70 hoặc những năm 80 của thế kỷ trước làm phương tiện chở hàng hóa, xe thồ hàng đã không còn quá xa lạ. Điểm chung của những chiếc xe này là nhiều bộ phận đã hỏng, không còn tính năng sử dụng, nhiều chiếc xe không có một số bộ phận thiết yếu như còi, đèn; xe đã được mua đi bán lại nhiều lần nhưng không thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ, Xe máy cũ nát không chỉ gây mất an toàn đối với người điều khiển phương tiện mà còn tạo ra khói bụi, tiếng ồn, đặc biệt là tại các ngã ba, ngã tư trong giờ cao điểm Hiện nay, Chính phủ đã ban hành tiêu chuẩn về khí thải đối với các phương tiện cơ giới nhưng cơ quan đăng kiểm hầu như chỉ mới kiểm tra ô tô, chưa chính thức kiểm soát khí thải đối với xe máy. Trong khi đó, trên 50% xe máy đang lưu hành hiện nay không đạt tiêu chuẩn, xả thải ra môi trường các chất thải độc hại cao gấp nhiều lần quy định cho phép. Đây là nguyên nhân khiến môi trường ngày càng ô nhiễm, làm phát sinh các loại bệnh ở 113

119 con người như các bệnh về phổi, gan, thậm chí cả ung thư. Đứng trước thực tế trên, tại Điều 83 Luật bảo vệ Môi trường năm 2014 có quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải. Cụ thể: chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ. Người tiêu dùng có trách nhiệm chuyển sản phẩm thải bỏ đến nơi quy định. Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổ chức việc thu gom sản phẩm thải bỏ. Để cụ thể hóa quy định này Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, người tiêu dùng và tổ chức cá nhân liên quan đến hoạt động thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ trên lãnh thổ Việt Nam. Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án Kiểm soát khí thải xe máy do Cục đăng kiểm Việt Nam đề xuất. Tóm lại, là phương tiện giao thông không đạt chuẩn về môi trường thì chủ sở hữu phải dừng lưu thông, nếu không dừng thì có thể sẽ bị cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền thu hồi. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi các quy định này đến đâu còn liên quan đến trách nhiệm không chỉ của các chủ phương tiện mà còn liên quan đến các cơ quan nhau, như: Cục Đăng kiểm Việt Nam, Thanh tra giao thông, Bộ Giao thông vận tải, Thanh tra Bộ, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như Thanh tra Tra Tổng cục Môi trường và UBND các cấp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường từ nguồn thải động Thực trạng quy định về nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn thải tĩnh của chủ sở hữu nguồn thải tĩnh Nguồn thải tĩnh là một trong hai nguồn thải chủ yếu gây nên ÔNMTKK, pháp luật hiện hành đã có những quy định nhằm KSÔN không khí ngay tại nguồn, từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Cụ thể: + Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải khí tác động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 62 Luật BVMT năm 2014); + Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải phải kiểm soát và xử lý bụi, khí thải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường (khoản 1 Điều 102 Luật BVMT năm 2014); + Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải (khoản 3 Điều 64 Luật BVMT năm 2014); 114

120 + Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải (khoản 4 Điều 64); + Bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại (khoản 3 Điều 102 Luật BVMT năm 2014); + Tổ chức, cá nhân gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát, xử lý bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường (khoản 1 Điều 103); + Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu dân cư gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải thực hiện biện pháp giảm thiểu, không làm ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư (khoản 2 Điều 103); Có thể thấy, mặc dù đã có những một vài quy định về ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí từ các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, từ nguồn thải động và nguồn thải tĩnh. Tuy nhiên, pháp luật môi trường hiện hành chưa đưa ra cách hiểu thế nào là ngăn chặn ô nhiễm môi trường dẫn tới khó khăn cho việc xây dựng các quy định pháp luật về ngăn chặn ô nhiễm môi trường một cách thống nhất; chưa quy định rõ về ngăn chặn ÔNMTKK từ nguồn thải di động cũng như nguồn thải cố định. Điều này dẫn tới những khó khăn trong quá trình ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí trên thực tiễn. Ví dụ: gần đây nhất, ô nhiễm môi trường không khí do nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 gây ra vì nhà máy này cho xe vận chuyển xỉ than ra đổ dọc đường và đổ tràn lan ở bãi tập kết. Bãi xỉ không được xử lý theo đúng quy định, nên đã gây những trận bão xỉ mù mịt. Cây cối, hoa màu dính đầy bụi xỉ, ngả vàng và héo dần. Bụi đóng thành ra cục. Từ cây trái cho tới cây trôm lấy mủ đều không thể ra hoa, kết trái và rụng hết lá. Sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng, cuộc sống người dân lâm vào cảnh khó khăn. Nguồn nước sinh hoạt hàng ngày cũng không thể sử dụng do ô nhiễm bụi xỉ. Trước sự phản ứng của người dân thì các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương, thậm chí là Chính phủ đã vào cuộc yêu cầu Tập đoàn Điện lực phải có biện pháp để xử lý triệt để ô nhiễm môi trường do chất thải của nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 gây ra [66] Có thể thấy trong vụ này hai vấn đề: một là, sức mạnh của cộng đồng, tiếng nói của cộng đồng, sức ảnh hưởng của cộng đồng với việc bảo vệ môi trường; hai là, các cơ chế pháp lý liên quan đến quản lý hành chính về môi trường đã được sử dụng tối đa, nhanh chóng để can thiệp vào hành vi vi phạm pháp luật môi trường của Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân 2 nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí. Chủ nguồn thải, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ ngăn chặn ô nhiễm khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường mà nếu có thiệt hại xảy ra các chủ thể này phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường. 115

121 3.5. Thực trạng quy định về xử lý ô nhiễm môi trƣờng không khí Xử lý ÔNMTKK là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong xác định các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí, khắc phục ô nhiễm, khôi phục hiện trạng môi trường không khí nhằm giữ cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp Quy định về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng Theo Luật BVMT năm 2014, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng là cơ sở có hành vi thải nước thải, khí thải, bụi, chất thải rắn, tiếng ồn, độ rung và các chất gây ô nhiễm khác vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở mức độ nghiêm trọng. (khoản 1 Điều 104) [83]. Khi cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và đưa vào Danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng kèm theo biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Việc đưa vào danh sách quản lý sẽ góp phần giúp cơ quan nhà nước và chủ nguồn thải có thể theo dõi, ngăn chặn kịp thời ô nhiễm môi trường không khí từ các cơ sở này gây ra. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hàng năm phải rà soát, phát hiện cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo đó, UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ lập danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này và biện pháp xử lý gửi Bộ TN và MT tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh lập danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh và biện pháp xử lý gửi Bộ TN và MT tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ TN và MT chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ quyết định danh sách và biện pháp xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Quyết định xử lý đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được thông báo cho UBND cấp huyện, cấp xã nơi cơ sở có hoạt động gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và công khai cho cộng đồng dân cư biết để kiểm tra, giám sát. (Điều 104 Luật BVMT 2014). Tiếp đó vấn đề này đã được cụ thể hóa trong mục 3 Chương VI Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014, như: quy định rõ nguyên tắc và căn cứ xác định cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng. Ví dụ: hành vi xả khí thải, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; hành vi gây tiếng ồn, độ rung vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; quy định về xác định mức độ vi phạm của hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí như trên dựa vào lưu lượng khí thải, bụi của cơ sở; số lần vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường của các thông số môi trường đặc trưng 116

122 và số các thông số môi trường đặc trưng vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải có trong khí thải, bụi của cơ sở. Đối với hành vi chôn lấp, thải vào đất, môi trường nước các chất gây ô nhiễm ở thể lỏng, rắn, bùn không đúng quy định làm môi trường đất, nước, không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường xung quanh thì xác định mức độ vi phạm dựa vào số lần vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về không khí xung quanh. Nghị định này cũng quy định cụ thể hơn về đưa các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vào Danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cũng như đưa ra các biện pháp xử lý, như: di dời địa điểm đến vị trí phù hợp với quy hoạch và sức chịu tải của môi trường; cải tạo, nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; cải tạo, phục hồi môi trường tại khu vực đã gây ô nhiễm. Đồng thời xác định rõ trình tự, thủ tục quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và thời hạn thực hiện (Điều 35). Không chỉ đưa vào Danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đưa ra biện pháp xử lý. Nghị định này còn quy định về việc công khai danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Có thể thấy những quy định này là cơ sở quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được hiệu quả hơn, góp phần phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Theo Báo cáo của Tổng cục Môi trường cho thấy, đến nay đã có 389/413 cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng có tên trong Quyết định 64/2003/QĐ-TTg cơ bản đã hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để. Thực hiện Quyết định 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, Tổng cục Môi trường đã phối hợp với các địa phương tích cực triển khai nhiều biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tính đến tháng 6/2015, trong số 186 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng có thời hạn xử lý đến 31/12/2015 đã có 140 cơ sở cơ bản hoàn thành biện pháp xử lý, không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (chiếm tỷ lệ 75,27%). Đồng thời, hầu hết các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định 1788/QĐ TTg đã thực hiện ngay các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm trong thời gian xử lý để theo danh mục và biện pháp xử lý theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, qua đó góp phần giảm thiểu tác động và ô nhiễm môi trường tới cộng đồng. Điều này cho thấy sự quyết tâm của Nhà nước trong ngăn chặn, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí nặng nề gây thiệt hại lớn cho môi trường vẫn 117

123 chưa đưa vào danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do hoạt động rà soát các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí vẫn còn nhiều bất cập nên chưa xử lý triệt được triệt để các cơ sở gây ô nhiễm này nhằm ngăn chặn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí Quy định về khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường không khí Khắc phục ô nhiễm môi trường là hoạt động giảm thiểu tác động của ô nhiễm đến môi trường, con người và nâng cao chất lượng môi trường tại khu vực môi trường bị ô nhiễm[95, 46]. Để khắc phục ô nhiễm môi trường nói chung, pháp luật hiện hành chia khu vực ô nhiễm thành 3 mức độ: ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng và quy định về cách thức xác định khu vực bị ô nhiễm môi trường, gồm: a) Xác định phạm vi, giới hạn của khu vực môi trường bị ô nhiễm; b) Xác định mức độ ô nhiễm, đánh giá rủi ro; c) Xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các bên liên quan; d) Các giải pháp xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; đ) Xác định các thiệt hại đối với môi trường làm căn cứ để yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải bồi thường (Điều 106 Luât BVMT năm 2014). Bên cạnh đó, Luật cũng quy định về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải và cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường. Theo đó tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải có trách nhiệm sau: Một là, có phương án cải tạo, phục hồi môi trường khi tiến hành các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; Hai là, tiến hành biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường khi gây ô nhiễm môi trường; Ba là, trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường mà không tự thỏa thuận được về trách nhiệm thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phối hợp với tổ chức, cá nhân có liên quan làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức điều tra, xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm trên địa bàn, hàng năm báo cáo Bộ TN và MT. Còn Bộ TN và MT có trách nhiệm sau: quy định tiêu chí phân loại khu vực ô nhiễm môi trường; hướng dẫn thực hiện hoạt động cải tạo, phục hồi môi trường; kiểm tra xác nhận hoàn thành khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; điều tra, đánh giá và tổ chức thực hiện các hoạt động khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường đối với các khu vực bị ô nhiễm liên tỉnh. Trường hợp môi trường bị ô nhiễm do thiên tai gây ra hoặc chưa xác định được nguyên nhân thì bộ, ngành và UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm huy động nguồn lực để tổ chức khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường. 118

124 Qua phân tích trên cơ thể thấy, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã có quy định về phục hồi hiện trạng môi trường, các quy định này góp phần vào phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Tuy nhiên, một là, Luật vẫn chưa có quy định riêng về khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường không khí. Như chúng ta biết ô nhiễm môi trường không khí và thiệt hại do nó gây ra mang tính đặc thì nên việc áp dụng các quy định chung về phục hồi ô nhiễm môi trường trên vào rất khó giải quyết được triệt để vấn đề. Hai là, pháp luật môi trường hiện hành cũng chưa quy định về xác định thiệt hại môi trường không khí (Nghị định 03/2015/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường), nhưng cũng chưa có quy định vấn đề này. Ba là, môi trường không khí mang tính khuyếch tán nên để xác định được mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng sẽ rất khó khăn. Ví du: doanh nghiệp lén xả khí thải từ 0h đêm đến 3h sáng dừng thải thì sáng hôm sau khu vực đã trời quang mây tạnh, Do vậy, rất khó có cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đòi bồi thường thiệt hại môi trường không khí. Còn đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản thì cũng không dễ dàng hơn. Bởi muốn chứng minh thiệt hại này cần phải chứng minh được môi trường không khí bị thiệt hại và gây thiệt hại cho con người Về xử lý hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí Trên thế giới, để bảo đảm pháp luật được thực thi, pháp luật các nước đều có quy định chế tài áp dụng với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Tại Singapore, để bảo vệ môi trường được hiệu quả, nước này đã ban hành một loạt các chế tài áp dụng với các hành vi vi pháp luật môi trường, như chế tài hành chính, chế tài hình sự, chế tài dân sự. Ví dụ: về trách nhiệm hình với các tội phạm môi trường chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế. Tùy theo mức độ nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội có thể bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc[81]. Còn tại Trung Quốc, Luật BVMT sửa đổi đã tăng thêm quyền hạn cho Cơ quan BVMT Trung Quốc để xử lý mạnh tay hơn đối với các doanh nghiệp, công ty công nghiệp phát thải quá mức ra môi trường... Trước đây, Cơ quan BVMT chỉ có thể xử phạt hành chính doanh nghiệp vì xả thải trái phép thì bây giờ, họ được phép đóng cửa những doanh nghiệp không tuân thủ các quy định về giảm khí thải tại nhà máy. Thêm nữa, hình phạt được quy định nghiêm khắc hơn, cụ thể, nếu doanh nghiệp cố tình tiếp tục gây ô nhiễm môi trường, họ sẽ phải trả một khoản phí phạt gấp nhiều lần so với phí phạt ban đầu, thậm chí là bị xử phạt hình sự đối với những cá nhân, doanh nghiệp cố tình vi phạm, không tuân thủ hệ thống giám sát ô nhiễm. Luật về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí quyển năm 2000 của Trung Quốc có quy định doanh nghiệp vi phạm pháp luật, gây ô nhiễm không khí có thể bị phạt đến 119

125 mức 50% tổn thất trực tiếp kinh tế, nhưng tối đa không quá 500 nghìn nhân dân tệ (Điều 61). Nếu hành vi gây ô nhiễm không khí ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại nặng về tài sản công, tài sản tư hoặc gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của con người và cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự Trung Quốc. [83]. Qua đó có thể thấy pháp luật một số nước quy định trách nhiệm pháp lý rất nặng nề với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường, với các quy định chặt chẽ, tổ chức thực hiện bài bản chuyên nghiệp đã góp phần giữ cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Còn theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi 4 loại trách nhiệm: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. Tùy từng trường hợp cá nhân, tổ chức có thể chịu các trách nhiệm pháp lý khác nhau, nhưng đối với một hành vi vi phạm, một cá nhân không phải chịu quá 3 loại trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm hành chính Luật Bảo vệ môi trường 2014 chỉ quy định mang tính nguyên tắc về xử phạt vi phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường. Ví dụ: quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (Điều 104). Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 về vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề này đã được ghi nhận trước đó trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT thay Nghị định số 117/2009/NĐ-CP. Theo đó hình thức xử phạt hành chính do vi phạm pháp luật, gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung khác. Mức phạt tiền cao nhất đối với một hành vi vi phạm pháp luật môi trường của tổ chức là 2 tỷ đồng. Còn mức xử phạt cao nhất đối với một hành vi vi phạm của cá nhân là 1 tỷ đồng. Đối với đối với hành vi thải mùi hôi thối vào môi trường phạt tiền từ đồng đến đồng. Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dưới 1,5 lần bị xử phạt tiền thấp nhất đồng trong trường hợp lưu lượng khí thải nhỏ hơn 500 m 3 /giờ đến đồng trong trường hợp lưu lượng khí thải từ m 3 /giờ trở lên (Điều 15). Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 1,5 lần đến dưới 02 lần bị xử phạt ít nhất từ đồng đến đồng trong trường hợp lưu lượng khí thải từ m 3 /giờ trở lên. Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 02 lần đến dưới 03 lần bị xử phạt tối thiểu là từ đồng đến đồng trong trường hợp lưu lượng khí thải từ m 3 /giờ trở lên. 120

126 Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 03 lần trở lên bị xử phạt thấp nhất từ đồng đến đồng đối với hành vi thải khí, bụi có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép. Phạt tăng thêm 1% của mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật dưới 1,5 lần; 2% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,5 đến dưới 02 lần; 3% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 đến dưới 03 lần; 4% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 03 lần trở lên. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá đồng. Bên cạnh đó, các chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung, như: a) đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở từ 03 tháng đến 06 tháng. Ngoài ra các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, như: a) Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra; b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này; c) Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này. Trường hợp vi phạm các quy định về tiếng ồn thì bị xử phạt tiền thấp từ đồng ng đến đồng đối với hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn. Bên cạnh đó, có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, như: a) Đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm tiếng ồn của cơ sở từ 03 tháng đến 06 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều này; b) Đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 06 tháng đến 12 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Khoản 7, 8 và 9 Điều này. Ngoài ra, còn phải thực hiện khắc phục hậu quả, như: a) Buộc thực hiện biện pháp giảm thiểu tiếng ồn đạt quy chuẩn kỹ thuật trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra; b) Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm tiếng ồn theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này. Hành vi vi phạm các quy định về độ rung trong hoạt động xây dựng bị xử phạt thấp nhất là đồng và cao nhất là đến đồng đối với hành vi gây độ rung vượt quy chuẩn kỹ thuật về độ rung. Bên cạnh đó, còn có thể bị áp dụng hình thức 121

127 xử phạt bổ sung, như: đình chỉ hoạt động gây độ rung của cơ sở từ 03 tháng đến 06 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Điểm c, d, đ và e Khoản 1 và các Điểm c, d, đ và e Khoản 2 Điều này; đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 06 tháng đến 12 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Điểm g, h và i Khoản 1 và các Điểm g, h và i Khoản 2 Điều này. Ngoài ra còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, như: a) Buộc phải thực hiện biện pháp giảm thiểu độ rung đạt quy chuẩn kỹ thuật trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra; b) Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về độ rung vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này (Điều 18). Trường hợp hành vi gây ô nhiễm đất, nước, không khí; gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể bị phạt tăng thêm từ 20% đến 30% của mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a Khoản 8, Khoản 9 và Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và Khoản 8 Điều 23; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5 và Khoản 6 Điều 34 hoặc vi phạm trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh đến dưới 03 lần đối với thông số môi trường nguy hại hoặc dưới 05 lần đối với thông số môi trường không nguy hại. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá đồng (Điều 19). Phạt tăng thêm từ 30% đến 40% của mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a Khoản 8, Khoản 9 và Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và Khoản 8 Điều 23; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5 và Khoản 6 Điều 34 hoặc vi phạm trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh từ 03 lần đến dưới 05 lần đối với thông số môi trường nguy hại hoặc từ 05 lần đến dưới 10 lần đối với thông số môi trường không nguy hại. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá đồng. Phạt tăng thêm từ 40% đến 50% của mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm các hành vi vi phạm tại các Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a Khoản 8, Khoản 9 và Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và Khoản 8 Điều 23; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5 122

128 và Khoản 6 Điều 34 trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh từ 05 lần trở lên đối với thông số môi trường nguy hại hoặc từ 10 lần trở lên đối với thông số môi trường không nguy hại. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá đồng. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn có thể bị áp dụng thêm các hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép môi trường tịch thu tang vật, phương tiện. Ngoài ra cá nhân tổ chức còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Những quy định này là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí. Tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng xử lý vi phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí trong bối cảnh hiện nay. Bởi: một là, hoạt động xả, thải, gây ô nhiễm môi trường không khí của các cá nhân, tổ chức ngày càng tinh vi, nên việc xác định hành vi xả, thải của tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi trường không khí là không dễ dàng; hai là, mức xử phạt đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí theo pháp luật hiện hành vẫn còn thấp chưa đảm bảo tính răn đe; thứ ba, sự buông lỏng trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ của mình cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Để đảm bảo tính răn đe mạnh mẽ hơn nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí, ngoài trách nhiệm hành chính, theo pháp luật Việt Nam cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường có thể phải chịu trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì cá nhân có hành vi phạm tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự gồm : phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, cấm làm công việc nhất định. Điều 182 quy định : "1. Người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 123

129 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Điều luật này được ban hành để trừng phạt những người có hành vi xả thải các chất độc hại quá giới hạn cho phép được quy định tại các tiêu chuẩn về môi trường nhằm KSÔN môi trường không khí. Cụ thể: Đối với hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. Đối hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí có dấu hiệu, như: có tổ chức; làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác thì có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Qua nghiên cứu các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về KSÔN môi trường không khí, các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn những hạn chế nhất định. Cụ thể : Một là, một số hành vi bị cấm trong Điều 7, Luật BVMT 2014 vẫn chưa được bổ sung trong Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 như: hành vi gây tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép; sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và tính mạng con người; hành vi cản trở hoạt động bảo vệ môi trường,...; Hai là, hình phạt tiền áp dụng với hành vi làm ô nhiễm môi trường còn quá thấp, hình phạt tiền chính quy định tại khoản 1 Điều 182 mức tối đa là 500 triệu đồng và hình phạt bổ sung có thể thêm 150 triệu đồng nữa đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường là quá thấp, thấp hơn cả xử phạt hành chính. Ba là, hình phạt tù đối với tội phạm môi trường còn nhẹ, hình phạt tù cao nhất với tội gây ô nhiễm môi trường là 10 năm tù. Hơn nữa, các hình phạt quy định trong 124

130 Luật do hành vi làm ô nhiễm môi trường còn chưa đa dạng. Đó cũng gây khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý các hành vi vi phạm tội này. Bốn là, Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 vẫn chưa quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, trong khi pháp nhân là những chủ thể gây thiệt hại cho môi trường có xu hướng ngày càng lớn Trách nhiệm dân sự Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường, hiện nay pháp luật quy định có hai dạng: một là thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích, gồm: thiệt hại về môi trường đất, nước, động thực vật, hệ sinh thái và hai là, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác. Việc xác định thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích được thực hiện theo Luật BVMT năm 2014 và Nghị định số 113/2010/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường hiện nay là Nghị định số 03/2015/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường. Còn xác định thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác được quy định trong Luật BVMT và Bộ luật Dân sự 2005 cũng như Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [54]. Đối với thiệt hại về môi trường không khí, pháp luật BVMT hiện hành chưa quy định cụ thể về loại thiệt hại này cũng như cách xác định thiệt hại về môi trường không khí làm cơ sở để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác do hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí gây ra. Theo quy định của pháp luật dân sự để cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường thì cần xác định được 3 yếu tố cấu thành là: có hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại xảy ra trên thực tiễn và xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Tuy vậy, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra là không hề đơn giản. Đây là khó khăn cho Nhà nước trong KSÔN môi trường không khí, đặc biệt là đối với tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do ÔNMTKK gây ra Trách nhiệm kỷ luật Theo quy định tại khoản 2 Điều 160 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 thì trách nhiệm kỷ luật được áp dụng với người đứng đầu tổ chức, cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ chức, công dân, bao che cho người vi phạm pháp luật về BVMT hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường nghiêm trọng thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì còn phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Việc quy định về trách nhiệm kỷ luật trong quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là rất quan trọng vì nó đánh vào công việc của người có thẩm quyền do vậy họ sẽ phải cân nhắc khi thực hiện hành vi của mình. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ Môi 125

131 trường 2014 không quy định cụ thể về loại trách nhiệm pháp lý này, ngoài quy định tại Điều 160. Do vậy, việc áp dụng trách nhiệm pháp lý này vẫn cần viện dẫn các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Hơn nữa, trên thực tiễn do nhiều nguyên nhân mà cho đến nay việc áp dụng trách nhiệm kỷ luật liên quan đến quản lý môi trường, trong đó có môi trường không khí vẫn chưa được thực hiện triệt để, hiệu quả và còn mang tính hình thức. Dẫn tới không thiếu hiện tượng hiện tượng thờ ơ, buông lỏng, vô cảm trong quản lý nhà nước về môi trường, thậm chí như phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận ngày 27 thang 5 năm 2016 là Có những cán bộ vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Rõ ràng không thể để vấn đề này tồn tại trong bối cảnh Việt Nam đã và đang xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Những kết quả và hạn chế, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam Có thể thấy, thực tiễn xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam những năm qua đã góp phần không nhỏ vào việc giữ cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Cụ thể: Thứ nhất, các chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ứng phó với biến đổi khí hậu của Đảng và Nhà nước đã hoàn thiện hơn; Thứ hai, các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, về phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường không khí ngày càng hoàn thiện và đồng bộ hơn. Thứ ba, bước đầu hình thành và từng bước kiện toàn hệ thống các cơ quan bảo vệ môi trường không khí từ cơ quan có thẩm quyền chung đến cơ quan có thẩm quyền chuyên môn, từ cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương. Ví dụ: trung ương có Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Cục Khí tượng Thủy văn và ứng phó với biến đổi khí hậu, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao Thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ở địa phương có Ủy ban nhân dân các cấp, Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Cán bộ địa chính phụ trách môi trường, Sự hoàn thiện về tổ chức bộ máy kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí sẽ giúp việc thực thi các chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả hơn. Thứ tư, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc kiểm soát khí thải tại nguồn của phương tiện giao thông: thắt chặt quy chuẩn phát thải, loại bỏ phương tiện không đạt yêu cầu, xây dựng các Trung tâm thử nghiệm phát thải, tăng cường kiểm soát chất lượng 126

132 nhiên liệu: ban hành quy chuẩn về chất lượng nhiên liệu, cấm xăng pha chì, tiêu chuẩn xăng phù hợp với quy chuẩn phát thải Euro 2, Euro 3; Thứ năm, nhấn mạnh trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải tĩnh (doanh nghiệp, công ty, ). Đồng thời hoàn thiện quy định về tổ chức hoạt động của thanh tra môi trường theo hướng ngày càng chuyên nghiệp góp phần phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường một cách kịp thời, triệt để; Thứ sáu, đã có quy định về dự báo biến đổi khí hậu, dự báo hí tượng thủy văn. Nhiều mô hình dự báo ô nhiễm môi trường không khí đã được ứng dụng tại Việt Nam nhằm dự báo chính xác hơn ô nhiễm môi trường không khí, biến đổi khí hậu để nhà nước có thể hoạch định được các chính sách hiệu quả về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thứ bảy, quy định về quan trắc ô nhiễm môi trường, thông tin tình hình môi trường được quy định theo hướng cụ thể hơn. Các chương trình quan trắc môi trường không khí theo điểm với tần xuất ngày càng tăng theo năm và hệ thống quan trắc tự động ngày càng được mở rộng góp phần đánh giá chính xác hơn hiện trạng môi trường không khí và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí; Thứ tám, quy chuẩn không khí xung quanh và quy chuẩn môi trường về khí thải ngày càng được rà soát và chỉnh sửa phù hợp hơn với điều kiện Việt Nam, đặc biệt là tiến tới ban hành Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí trong nhà; Bên cạnh đó, thực tiễn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam những năm qua vẫn còn những bất cập, hạn chế nhất định. Sở dĩ quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn kém hiệu quả như trên là do nhiều nguyên nhân. Cụ thể: Một là, cho đến nay Việt Nam cũng chưa có một chiến lược thu hút đầu tư và quy hoạch phát triển kinh tế hợp lý. Từ khi mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đến nay đa phần hoạt động đầu tư đến nước ta là tập trung vào các ngành nghề tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô 127

Kinh tế học vĩ mô Bài đọc

Kinh tế học vĩ mô Bài đọc Chương tình giảng dạy kinh tế Fulbight Niên khóa 2011-2013 Mô hình 1. : cung cấp cơ sở lý thuyết tổng cầu a. Giả sử: cố định, Kinh tế đóng b. IS - cân bằng thị tường hàng hoá: I() = S() c. LM - cân bằng

Διαβάστε περισσότερα

Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Για να ρωτήσετε που μπορείτε να βρείτε μια φόρμα

Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Για να ρωτήσετε που μπορείτε να βρείτε μια φόρμα - Γενικά Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Για να ρωτήσετε που μπορείτε να βρείτε μια φόρμα Khi nào [tài liệu] của bạn được ban hành? Για να ρωτήσετε πότε έχει

Διαβάστε περισσότερα

Năm Chứng minh Y N

Năm Chứng minh Y N Về bài toán số 5 trong kì thi chọn đội tuyển toán uốc tế của Việt Nam năm 2015 Nguyễn Văn Linh Năm 2015 1 Mở đầu Trong ngày thi thứ hai của kì thi Việt Nam TST 2015 có một bài toán khá thú vị. ài toán.

Διαβάστε περισσότερα

MALE = 1 nếu là nam, MALE = 0 nếu là nữ. 1) Nêu ý nghĩa của các hệ số hồi quy trong hàm hồi quy mẫu trên?

MALE = 1 nếu là nam, MALE = 0 nếu là nữ. 1) Nêu ý nghĩa của các hệ số hồi quy trong hàm hồi quy mẫu trên? Chương 4: HỒI QUY VỚI BIẾN GIẢ VÀ ỨNG DỤNG 1. Nghiên cứu về tuổi thọ (Y: ngày) của hai loại bóng đèn (loại A, loại B). Đặt Z = 0 nếu đó là bóng đèn loại A, Z = 1 nếu đó là bóng đèn loại B. Kết quả hồi

Διαβάστε περισσότερα

1. Ma trận A = Ký hiệu tắt A = [a ij ] m n hoặc A = (a ij ) m n

1. Ma trận A = Ký hiệu tắt A = [a ij ] m n hoặc A = (a ij ) m n Cơ sở Toán 1 Chương 2: Ma trận - Định thức GV: Phạm Việt Nga Bộ môn Toán, Khoa CNTT, Học viện Nông nghiệp Việt Nam Bộ môn Toán () Cơ sở Toán 1 - Chương 2 VNUA 1 / 22 Mục lục 1 Ma trận 2 Định thức 3 Ma

Διαβάστε περισσότερα

ĐỀ BÀI TẬP LỚN MÔN XỬ LÝ SONG SONG HỆ PHÂN BỐ (501047)

ĐỀ BÀI TẬP LỚN MÔN XỬ LÝ SONG SONG HỆ PHÂN BỐ (501047) ĐỀ BÀI TẬP LỚN MÔN XỬ LÝ SONG SONG HỆ PHÂN BỐ (501047) Lưu ý: - Sinh viên tự chọn nhóm, mỗi nhóm có 03 sinh viên. Báo cáo phải ghi rõ vai trò của từng thành viên trong dự án. - Sinh viên báo cáo trực tiếp

Διαβάστε περισσότερα

* Môn thi: VẬT LÝ (Bảng A) * Ngày thi: 27/01/2013 * Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) ĐỀ:

* Môn thi: VẬT LÝ (Bảng A) * Ngày thi: 27/01/2013 * Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) ĐỀ: Họ và tên thí sinh:. Chữ kí giám thị Số báo danh:..... SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẠC LIÊU KỲ THI CHỌN HSG LỚP 0 CẤP TỈNH NĂM HỌC 0-03 ĐỀ THI CHÍNH THỨC (Gồm 0 trang) * Môn thi: VẬT LÝ (Bảng A) * Ngày thi:

Διαβάστε περισσότερα

Ngày 26 tháng 12 năm 2015

Ngày 26 tháng 12 năm 2015 Mô hình Tobit với Biến Phụ thuộc bị chặn Lê Việt Phú Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngày 26 tháng 12 năm 2015 1 / 19 Table of contents Khái niệm biến phụ thuộc bị chặn Hồi quy OLS với biến phụ

Διαβάστε περισσότερα

Sử dụngụ Minitab trong thống kê môi trường

Sử dụngụ Minitab trong thống kê môi trường Sử dụngụ Minitab trong thống kê môi trường Dương Trí Dũng I. Giới thiệu Hiện nay có nhiều phần mềm (software) thống kê trên thị trường Giá cao Excel không đủ tính năng Tinh bằng công thức chậm Có nhiều

Διαβάστε περισσότερα

PHÂN TÍCH ẢNH HƢỞNG CỦA SÓNG HÀI TRONG TRẠM BÙ CÔNG SUẤT PHẢN KHÁNG KIỂU SVC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

PHÂN TÍCH ẢNH HƢỞNG CỦA SÓNG HÀI TRONG TRẠM BÙ CÔNG SUẤT PHẢN KHÁNG KIỂU SVC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Luận văn thạc sĩ kỹ thuật 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP --------------------------------------- VŨ THỊ VÒNG PHÂN TÍCH ẢNH HƢỞNG CỦA SÓNG HÀI TRONG TRẠM BÙ CÔNG SUẤT PHẢN KHÁNG KIỂU SVC

Διαβάστε περισσότερα

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ (Dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa) Lưu hành nội bộ HÀ NỘI - 2007 HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Biên soạn :

Διαβάστε περισσότερα

Năm Chứng minh. Cách 1. Y H b. H c. BH c BM = P M. CM = Y H b

Năm Chứng minh. Cách 1. Y H b. H c. BH c BM = P M. CM = Y H b huỗi bài toán về họ đường tròn đi qua điểm cố định Nguyễn Văn inh Năm 2015 húng ta bắt đầu từ bài toán sau. ài 1. (US TST 2012) ho tam giác. là một điểm chuyển động trên. Gọi, lần lượt là các điểm trên,

Διαβάστε περισσότερα

Bài Tập Môn: NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH

Bài Tập Môn: NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH Câu 1: Bài Tập Môn: NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH Cho văn phạm dưới đây định nghĩa cú pháp của các biểu thức luận lý bao gồm các biến luận lý a,b,, z, các phép toán luận lý not, and, và các dấu mở và đóng ngoặc tròn

Διαβάστε περισσότερα

I 2 Z I 1 Y O 2 I A O 1 T Q Z N

I 2 Z I 1 Y O 2 I A O 1 T Q Z N ài toán 6 trong kì thi chọn đội tuyển quốc gia Iran năm 2013 Nguyễn Văn Linh Sinh viên K50 TNH ĐH Ngoại Thương 1 Giới thiệu Trong ngày thi thứ 2 của kì thi chọn đội tuyển quốc gia Iran năm 2013 xuất hiện

Διαβάστε περισσότερα

có thể biểu diễn được như là một kiểu đạo hàm của một phiếm hàm năng lượng I[]

có thể biểu diễn được như là một kiểu đạo hàm của một phiếm hàm năng lượng I[] 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đều biết: không có lý thuyết tổng quát cho phép giải mọi phương trình đạo hàm riêng; nhất là với các phương trình phi tuyến Au [ ] = 0; (1) trong đó A[] ký hiệu toán

Διαβάστε περισσότερα

SỞ GD & ĐT ĐỒNG THÁP ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2014 LẦN 1

SỞ GD & ĐT ĐỒNG THÁP ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2014 LẦN 1 SỞ GD & ĐT ĐỒNG THÁP ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 0 LẦN THPT Chuyên Nguyễn Quang Diêu Môn: TOÁN; Khối D Thời gian làm bài: 80 phút, không kể thời gian phát đề ĐỀ CHÍNH THỨC I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ

Διαβάστε περισσότερα

Năm 2017 Q 1 Q 2 P 2 P P 1

Năm 2017 Q 1 Q 2 P 2 P P 1 Dùng phép vị tự quay để giải một số bài toán liên quan đến yếu tố cố định Nguyễn Văn Linh Năm 2017 1 Mở đầu Tư tưởng của phương pháp này khá đơn giản như sau. Trong bài toán chứng minh điểm chuyển động

Διαβάστε περισσότερα

x y y

x y y ĐÁP ÁN - ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG HỌC SINH LỚP THPT Bài Năm học 5 6- Môn: TOÁN y 4 TXĐ: D= R Sự biến thiên lim y lim y y ' 4 4 y ' 4 4 4 ( ) - - + y - + - + y + - - + Bài Hàm số đồng biến trên các khoảng

Διαβάστε περισσότερα

Năm Pascal xem tại [2]. A B C A B C. 2 Chứng minh. chứng minh sau. Cách 1 (Jan van Yzeren).

Năm Pascal xem tại [2]. A B C A B C. 2 Chứng minh. chứng minh sau. Cách 1 (Jan van Yzeren). Định lý Pascal guyễn Văn Linh ăm 2014 1 Giới thiệu. ăm 16 tuổi, Pascal công bố một công trình toán học : Về thiết diện của đường cônic, trong đó ông đã chứng minh một định lí nổi tiếng và gọi là Định lí

Διαβάστε περισσότερα

Năm 2014 B 1 A 1 C C 1. Ta có A 1, B 1, C 1 thẳng hàng khi và chỉ khi BA 1 C 1 = B 1 A 1 C.

Năm 2014 B 1 A 1 C C 1. Ta có A 1, B 1, C 1 thẳng hàng khi và chỉ khi BA 1 C 1 = B 1 A 1 C. Đường thẳng Simson- Đường thẳng Steiner của tam giác Nguyễn Văn Linh Năm 2014 1 Đường thẳng Simson Đường thẳng Simson lần đầu tiên được đặt tên bởi oncelet, tuy nhiên một số nhà hình học cho rằng nó không

Διαβάστε περισσότερα

Μπορείτε να με βοηθήσετε να γεμίσω αυτή τη φόρμα; Για να ρωτήσετε αν κάποιος μπορεί να σας βοηθήσει να γεμίσετε μια φόρμα

Μπορείτε να με βοηθήσετε να γεμίσω αυτή τη φόρμα; Για να ρωτήσετε αν κάποιος μπορεί να σας βοηθήσει να γεμίσετε μια φόρμα - Γενικά Πού μπορώ να βρω τη φόρμα για ; Tôi có thể tìm mẫu đơn đăng kí ở đâu? Για να ρωτήσετε που μπορείτε να βρείτε μια φόρμα Πότε εκδόθηκε το [έγγραφο] σας; Για να ρωτήσετε πότε έχει εκδοθεί ένα έγγραφο

Διαβάστε περισσότερα

QCVN 28:2010/BTNMT. National Technical Regulation on Health Care Wastewater

QCVN 28:2010/BTNMT. National Technical Regulation on Health Care Wastewater CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QCVN 28:2010/BTNMT QUY CHUẨN KỸ THUẬT QUỐC GIA VỀ NƯỚC THẢI Y TẾ National Technical Regulation on Health Care Wastewater HÀ NỘI - 2010 Lời nói đầu QCVN 28:2010/BTNMT

Διαβάστε περισσότερα

1. Nghiên cứu khoa học là gì?

1. Nghiên cứu khoa học là gì? Nội dung cần trình bày Bài 1: Khái niệm về NCKH và các bước viết một đề cương nghiên cứu PGS.TS. Lưu Ngọc Hoạt Viện YHDP và YTCC Trường ĐH Y Hà Nội 1. Nghiên cứu khoa học là gì? 2. Tại sao cán bộ y tế

Διαβάστε περισσότερα

Truy cập website: hoc360.net để tải tài liệu đề thi miễn phí

Truy cập website: hoc360.net để tải tài liệu đề thi miễn phí Tru cập website: hoc36net để tải tài liệu đề thi iễn phí ÀI GIẢI âu : ( điể) Giải các phương trình và hệ phương trình sau: a) 8 3 3 () 8 3 3 8 Ta có ' 8 8 9 ; ' 9 3 o ' nên phương trình () có nghiệ phân

Διαβάστε περισσότερα

KỸ THUẬT ĐIỆN CHƯƠNG IV

KỸ THUẬT ĐIỆN CHƯƠNG IV KỸ THẬT ĐỆN HƯƠNG V MẠH ĐỆN PH HƯƠNG V : MẠH ĐỆN PH. Khái niệm chung Điện năng sử ụng trong công nghiệ ưới ạng òng điện sin ba ha vì những lý o sau: - Động cơ điện ba ha có cấu tạo đơn giản và đặc tính

Διαβάστε περισσότερα

Chương 12: Chu trình máy lạnh và bơm nhiệt

Chương 12: Chu trình máy lạnh và bơm nhiệt /009 Chương : Chu trình máy lạnh và bơm nhiệt. Khái niệm chung. Chu trình lạnh dùng không khí. Chu trình lạnh dùng hơi. /009. Khái niệm chung Máy lạnh/bơmnhiệt: chuyển CÔNG thành NHIỆT NĂNG Nguồn nóng

Διαβάστε περισσότερα

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN (Chương trình đào tạo tín chỉ, từ Khóa 2011)

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN (Chương trình đào tạo tín chỉ, từ Khóa 2011) Đề cương chi tiết Toán cao cấp 2 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập Tự do Hạnh phúc 1. Thông tin chung về môn học ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC

Διαβάστε περισσότερα

A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. HƯỚNG DẪN HỌC SINH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP VECTƠ GIẢI MỘT SỐ BÀI TOÁN HÌNH HỌC KHÔNG GIAN

A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. HƯỚNG DẪN HỌC SINH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP VECTƠ GIẢI MỘT SỐ BÀI TOÁN HÌNH HỌC KHÔNG GIAN . ĐẶT VẤN ĐỀ Hình họ hông gin là một hủ đề tương đối hó đối với họ sinh, hó ả áh tiếp ận vấn đề và ả trong tìm lời giải ài toán. Làm so để họ sinh họ hình họ hông gin dễ hiểu hơn, hoặ hí ít ũng giải đượ

Διαβάστε περισσότερα

Môn: Toán Năm học Thời gian làm bài: 90 phút; 50 câu trắc nghiệm khách quan Mã đề thi 116. (Thí sinh không được sử dụng tài liệu)

Môn: Toán Năm học Thời gian làm bài: 90 phút; 50 câu trắc nghiệm khách quan Mã đề thi 116. (Thí sinh không được sử dụng tài liệu) SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I LỚP TRƯỜNG THPT TRUNG GIÃ Môn: Toán Năm học 0-0 Thời gian làm bài: 90 phút; 50 câu trắc nghiệm khách quan Mã đề thi (Thí sinh không được sử dụng tài liệu)

Διαβάστε περισσότερα

Xác định cỡ mẫu nghiên cứu

Xác định cỡ mẫu nghiên cứu VIỆN NGHIÊN CỨU Y XÃ HỘI HỌC Xác định cỡ mẫu nghiên cứu Nguyễn Trương Nam Copyright Bản quyền thuộc về tác giả và thongke.info. Khi sử dụng một phần hoặc toàn bộ bài giảng đề nghị mọi người trích dẫn:

Διαβάστε περισσότερα

HÀM NHIỀU BIẾN Lân cận tại một điểm. 1. Định nghĩa Hàm 2 biến. Miền xác định của hàm f(x,y) là miền VD:

HÀM NHIỀU BIẾN Lân cận tại một điểm. 1. Định nghĩa Hàm 2 biến. Miền xác định của hàm f(x,y) là miền VD: . Định nghĩa Hàm biến. f : D M (, ) z= f( M) = f(, ) Miền ác định của hàm f(,) là miền VD: f : D HÀM NHIỀU BIẾN M (, ) z= f(, ) = D sao cho f(,) có nghĩa. Miền ác định của hàm f(,) là tập hợp những điểm

Διαβάστε περισσότερα

5. Phương trình vi phân

5. Phương trình vi phân 5. Phương trình vi phân (Toán cao cấp 2 - Giải tích) Lê Phương Bộ môn Toán kinh tế Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh Homepage: http://docgate.com/phuongle Nội dung 1 Khái niệm Phương trình vi phân Bài

Διαβάστε περισσότερα

Suy ra EA. EN = ED hay EI EJ = EN ED. Mặt khác, EID = BCD = ENM = ENJ. Suy ra EID ENJ. Ta thu được EI. EJ Suy ra EA EB = EN ED hay EA

Suy ra EA. EN = ED hay EI EJ = EN ED. Mặt khác, EID = BCD = ENM = ENJ. Suy ra EID ENJ. Ta thu được EI. EJ Suy ra EA EB = EN ED hay EA ài tập ôn đội tuyển năm 015 guyễn Văn inh Số 6 ài 1. ho tứ giác ngoại tiếp. hứng minh rằng trung trực của các cạnh,,, cắt nhau tạo thành một tứ giác ngoại tiếp. J 1 1 1 1 hứng minh. Gọi 1 1 1 1 là tứ giác

Διαβάστε περισσότερα

gặp của Học viên Học viên sử dụng khái niệm tích phân để tính.

gặp của Học viên Học viên sử dụng khái niệm tích phân để tính. ĐÁP ÁN Bài 1: BIẾN CỐ NGẪU NHIÊN VÀ XÁC SUẤT Tình huống dẫn nhập STT câu hỏi Nội dung câu hỏi Những ý kiến thường gặp của Học viên Kiến thức liên quan (Giải đáp cho các vấn đề) 1 Tính diện tích Hồ Gươm?

Διαβάστε περισσότερα

Phụ thuộc hàm. và Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu. Nội dung trình bày. Chương 7. Nguyên tắc thiết kế. Ngữ nghĩa của các thuộc tính (1) Phụ thuộc hàm

Phụ thuộc hàm. và Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu. Nội dung trình bày. Chương 7. Nguyên tắc thiết kế. Ngữ nghĩa của các thuộc tính (1) Phụ thuộc hàm Nội dung trình bày hương 7 và huẩn hóa cơ sở dữ liệu Nguyên tắc thiết kế các lược đồ quan hệ.. ác dạng chuẩn. Một số thuật toán chuẩn hóa. Nguyên tắc thiết kế Ngữ nghĩa của các thuộc tính () Nhìn lại vấn

Διαβάστε περισσότερα

https://www.facebook.com/nguyenkhachuongqv2 ĐỀ 56

https://www.facebook.com/nguyenkhachuongqv2 ĐỀ 56 TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU TỔ TOÁN Câu ( điểm). Cho hàm số y = + ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA LẦN NĂM HỌC 5-6 MÔN: TOÁN Thời gian làm bài: 8 phút (không tính thời gian phát đề ) a) Khảo sát sự biến thiên và vẽ

Διαβάστε περισσότερα

Nội dung. 1. Một số khái niệm. 2. Dung dịch chất điện ly. 3. Cân bằng trong dung dịch chất điện ly khó tan

Nội dung. 1. Một số khái niệm. 2. Dung dịch chất điện ly. 3. Cân bằng trong dung dịch chất điện ly khó tan CHƯƠNG 5: DUNG DỊCH 1 Nội dung 1. Một số khái niệm 2. Dung dịch chất điện ly 3. Cân bằng trong dung dịch chất điện ly khó tan 2 Dung dịch Là hệ đồng thể gồm 2 hay nhiều chất (chất tan & dung môi) mà thành

Διαβάστε περισσότερα

ĐỀ SỐ 16 ĐỀ THI THPT QUỐC GIA MÔN TOÁN 2017 Thời gian làm bài: 90 phút; không kể thời gian giao đề (50 câu trắc nghiệm)

ĐỀ SỐ 16 ĐỀ THI THPT QUỐC GIA MÔN TOÁN 2017 Thời gian làm bài: 90 phút; không kể thời gian giao đề (50 câu trắc nghiệm) THẦY: ĐẶNG THÀNH NAM Website: wwwvtedvn ĐỀ SỐ 6 ĐỀ THI THPT QUỐC GIA MÔN TOÁN 7 Thời gian làm bài: phút; không kể thời gian giao đề (5 câu trắc nghiệm) Mã đề thi 65 Họ, tên thí sinh:trường: Điểm mong muốn:

Διαβάστε περισσότερα

(CH4 - PHÂN TÍCH PHƯƠNG SAI, SO SÁNH VÀ KIỂM ĐỊNH) Ch4 - Phân tích phương sai, so sánh và kiểm định 1

(CH4 - PHÂN TÍCH PHƯƠNG SAI, SO SÁNH VÀ KIỂM ĐỊNH) Ch4 - Phân tích phương sai, so sánh và kiểm định 1 TIN HỌC ỨNG DỤNG (CH4 - PHÂN TÍCH PHƯƠNG SAI, SO SÁNH VÀ KIỂM ĐỊNH) Phan Trọng Tiến BM Công nghệ phần mềm Khoa Công nghệ thông tin, VNUA Email: phantien84@gmail.com Website: http://timoday.edu.vn Ch4 -

Διαβάστε περισσότερα

Μετανάστευση Σπουδές. Σπουδές - Πανεπιστήμιο. Για να δηλώσετε ότι θέλετε να εγγραφείτε

Μετανάστευση Σπουδές. Σπουδές - Πανεπιστήμιο. Για να δηλώσετε ότι θέλετε να εγγραφείτε - Πανεπιστήμιο Θα ήθελα να εγγραφώ σε πανεπιστήμιο. Για να δηλώσετε ότι θέλετε να εγγραφείτε Tôi muốn ghi danh vào một trường đại học Θα ήθελα να γραφτώ για. Tôi muốn đăng kí khóa học. Για να υποδείξετε

Διαβάστε περισσότερα

c) y = c) y = arctan(sin x) d) y = arctan(e x ).

c) y = c) y = arctan(sin x) d) y = arctan(e x ). Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội Viện Toán ứng dụng và Tin học ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP GIẢI TÍCH I - TỪ K6 Nhóm ngành 3 Mã số : MI 3 ) Kiểm tra giữa kỳ hệ số.3: Tự luận, 6 phút. Nội dung: Chương, chương đến hết

Διαβάστε περισσότερα

Xác định nguyên nhân và giải pháp hạn chế nứt ống bê tông dự ứng lực D2400mm

Xác định nguyên nhân và giải pháp hạn chế nứt ống bê tông dự ứng lực D2400mm Xác định nguyên nhân và giải pháp hạn chế nứt ống bê tông dự ứng lực D2400mm 1. Giới thiệu Ống bê tông dự ứng lực có nòng thép D2400 là sản phẩm cung cấp cho các tuyến ống cấp nước sạch. Đây là sản phẩm

Διαβάστε περισσότερα

XÂY DỰNG RUBRIC ĐỂ TỔ CHỨC VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CÁC CHƯƠNG CHẤT KHÍ VÀ CƠ SỞ CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC - VẬT LÝ 10 CƠ BẢN

XÂY DỰNG RUBRIC ĐỂ TỔ CHỨC VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CÁC CHƯƠNG CHẤT KHÍ VÀ CƠ SỞ CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC - VẬT LÝ 10 CƠ BẢN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THANH LOAN XÂY DỰNG RUBRIC ĐỂ TỔ CHỨC VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CÁC CHƯƠNG CHẤT KHÍ VÀ CƠ SỞ CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC - VẬT

Διαβάστε περισσότερα

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU...

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU... MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU... 5 Chƣơng I: Mở đầu... 8 1.1 Tập hợp và các cấu trúc đại số... 8 1.1.1 Tập hợp và các tập con... 8 1.1.2 Tập hợp và các phép toán hai ngôi... 9 1.3 Quan hệ và quan hệ tương đương...

Διαβάστε περισσότερα

Бизнес Заказ. Заказ - Размещение. Официально, проба

Бизнес Заказ. Заказ - Размещение. Официально, проба - Размещение Εξετάζουμε την αγορά... Официально, проба Είμαστε στην ευχάριστη θέση να δώσουμε την παραγγελία μας στην εταιρεία σας για... Θα θέλαμε να κάνουμε μια παραγγελία. Επισυνάπτεται η παραγγελία

Διαβάστε περισσότερα

(Propensity Score Matching Method) Ngày 11 tháng 5 năm 2016

(Propensity Score Matching Method) Ngày 11 tháng 5 năm 2016 Mô hình So sánh bằng Điểm Xu hướng (Propensity Score Matching Method) Lê Việt Phú Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngày 11 tháng 5 năm 2016 1 / 20 Table of contents 1. Tác động can thiệp trung

Διαβάστε περισσότερα

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ (Dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa) Lưu hành nội bộ HÀ NỘI - 2007 HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Biên soạn

Διαβάστε περισσότερα

A 2 B 1 C 1 C 2 B B 2 A 1

A 2 B 1 C 1 C 2 B B 2 A 1 Sáng tạo trong hình học Nguyễn Văn Linh Sinh viên K50 TNH ĐH Ngoại thương 1 Mở đầu Hình học là một mảng rất đặc biệt trong toán học. Vẻ đẹp của phân môn này nằm trong hình vẽ mà muốn cảm nhận được chúng

Διαβάστε περισσότερα

O C I O. I a. I b P P. 2 Chứng minh

O C I O. I a. I b P P. 2 Chứng minh ài toán rotassov và ứng dụng Nguyễn Văn Linh Năm 2017 1 Giới thiệu ài toán rotassov được phát biểu như sau. ho tam giác với là tâm đường tròn nội tiếp. Một đường tròn () bất kì đi qua và. ựng một đường

Διαβάστε περισσότερα

Bài Giảng Môn học: OTOMAT VÀ NGÔN NGỮ HÌNH THỨC

Bài Giảng Môn học: OTOMAT VÀ NGÔN NGỮ HÌNH THỨC Bài Giảng Môn học: OTOMAT VÀ NGÔN NGỮ HÌNH THỨC TS. Nguyễn Văn Định, Khoa CNTT Lời nói đầu Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, sự giao tiếp có thể hiểu là giao tiếp giữa con người với nhau, giao tiếp

Διαβάστε περισσότερα

1.3.3 Ma trận tự tương quan Các bài toán Khái niệm Ý nghĩa So sánh hai mô hình...

1.3.3 Ma trận tự tương quan Các bài toán Khái niệm Ý nghĩa So sánh hai mô hình... BÀI TẬP ÔN THI KINH TẾ LƯỢNG Biên Soạn ThS. LÊ TRƯỜNG GIANG Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 0, tháng 06, năm 016 Mục lục Trang Chương 1 Tóm tắt lý thuyết 1 1.1 Tổng quan về kinh tế lượng......................

Διαβάστε περισσότερα

- Toán học Việt Nam

- Toán học Việt Nam - Toán học Việt Nam PHƯƠNG PHÁP GIẢI TOÁN HÌNH HỌ KHÔNG GIN ẰNG VETOR I. Á VÍ DỤ INH HỌ Vấn đề 1: ho hình chóp S. có đáy là tam giác đều cạnh a. Hình chiếu vuông góc của S trên mặt phẳng () là điểm H thuộc

Διαβάστε περισσότερα

Q B Y A P O 4 O 6 Z O 5 O 1 O 2 O 3

Q B Y A P O 4 O 6 Z O 5 O 1 O 2 O 3 ài tập ôn đội tuyển năm 2015 guyễn Văn Linh Số 8 ài 1. ho tam giác nội tiếp đường tròn () có là tâm nội tiếp. cắt () lần thứ hai tại J. Gọi ω là đường tròn tâm J và tiếp xúc với,. Hai tiếp tuyến chung

Διαβάστε περισσότερα

Chương 11 HỒI QUY VÀ TƯƠNG QUAN ĐƠN BIẾN

Chương 11 HỒI QUY VÀ TƯƠNG QUAN ĐƠN BIẾN Chương 11 HỒI QUY VÀ TƯƠNG QUAN ĐƠN BIẾN Ths. Nguyễn Tiến Dũng Viện Kinh tế và Quản lý, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội Email: dung.nguyentien3@hust.edu.vn MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG Sau khi học xong chương này, người

Διαβάστε περισσότερα

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI MINH HỌA - KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2015 Môn: TOÁN Thời gian làm bài: 180 phút.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI MINH HỌA - KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2015 Môn: TOÁN Thời gian làm bài: 180 phút. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI MINH HỌA - KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM Môn: TOÁN Thời gian làm bài: 8 phút Câu (, điểm) Cho hàm số y = + a) Khảo sát sự biến thiên và vẽ đồ thị (C) của hàm số đã cho b) Viết

Διαβάστε περισσότερα

Giáo trình hệ điều hành. Biên tập bởi: Giảng viên. Lê Khắc Nhiên Ân

Giáo trình hệ điều hành. Biên tập bởi: Giảng viên. Lê Khắc Nhiên Ân Giáo trình hệ điều hành Biên tập bởi: Giảng viên. Lê Khắc Nhiên Ân Giáo trình hệ điều hành Biên tập bởi: Giảng viên. Lê Khắc Nhiên Ân Các tác giả: Giảng viên. Trần Hạnh Nhi Phiên bản trực tuyến: http://voer.edu.vn/c/a039fa79

Διαβάστε περισσότερα

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH HỖ TRỢ TÁI HÒA NHẬP CHO NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TẠI VIỆT NAM

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH HỖ TRỢ TÁI HÒA NHẬP CHO NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TẠI VIỆT NAM BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH HỖ TRỢ TÁI HÒA NHẬP CHO NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TẠI VIỆT NAM Những ý kiến được đưa ra trong báo cáo này là ý kiến của các tác giả và không nhất thiết phản ảnh những quan

Διαβάστε περισσότερα

BÀI TẬP CHƯƠNG 1 Đ/S: a) 4,1419 triệu b) 3,2523 triệu Đ/S: nên đầu tư, NPV=499,3 $

BÀI TẬP CHƯƠNG 1 Đ/S: a) 4,1419 triệu b) 3,2523 triệu Đ/S: nên đầu tư, NPV=499,3 $ BÀI TẬP CHƯƠNG 1 1. Trong điều kiện lãi suất 0,9% một tháng, hãy cho biết: a) Giá trị tương lai của 3 triệu đồng bạn có hôm nay sau 3 năm. b) Giá trị hiện tại của khoản tiền 5 triệu đồng bạn sẽ nhận được

Διαβάστε περισσότερα

O 2 I = 1 suy ra II 2 O 1 B.

O 2 I = 1 suy ra II 2 O 1 B. ài tập ôn đội tuyển năm 2014 guyễn Văn inh Số 2 ài 1. ho hai đường tròn ( 1 ) và ( 2 ) cùng tiếp xúc trong với đường tròn () lần lượt tại,. Từ kẻ hai tiếp tuyến t 1, t 2 tới ( 2 ), từ kẻ hai tiếp tuyến

Διαβάστε περισσότερα

Bài tập quản trị xuất nhập khẩu

Bài tập quản trị xuất nhập khẩu Bài tập quản trị xuất nhập khẩu Bài tập số 1: Anh (chị)hãy chỉ câu trả lời đúng sau đây theo INCOTERMS 2010: 1. Star.Co (Nhật Bản) ký HĐ mua gạo của Hope.Co (Việt Nam). Người mua có nghĩa vụ thuê tàu để

Διαβάστε περισσότερα

HOC360.NET - TÀI LIỆU HỌC TẬP MIỄN PHÍ. đến va chạm với vật M. Gọi vv, là vận tốc của m và M ngay. đến va chạm vào nó.

HOC360.NET - TÀI LIỆU HỌC TẬP MIỄN PHÍ. đến va chạm với vật M. Gọi vv, là vận tốc của m và M ngay. đến va chạm vào nó. HOC36.NET - TÀI LIỆU HỌC TẬP IỄN PHÍ CHỦ ĐỀ 3. CON LẮC ĐƠN BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN VA CHẠ CON LẮC ĐƠN Phương pháp giải Vật m chuyển động vận tốc v đến va chạm với vật. Gọi vv, là vận tốc của m và ngay sau

Διαβάστε περισσότερα

KỸ THUẬT ĐIỆN CHƯƠNG II

KỸ THUẬT ĐIỆN CHƯƠNG II KỸ THẬT ĐỆN HƯƠNG DÒNG ĐỆN SN Khái niệm: Dòng điện xoay chiều biến đổi theo quy luật hàm sin của thời gian là dòng điện sin. ác đại lượng đặc trưng cho dòng điện sin Trị số của dòng điện, điện áp sin ở

Διαβάστε περισσότερα

Chương 1: VECTOR KHÔNG GIAN VÀ BỘ NGHỊCH LƯU BA PHA

Chương 1: VECTOR KHÔNG GIAN VÀ BỘ NGHỊCH LƯU BA PHA I. Vcto không gian Chương : VECTOR KHÔNG GIAN VÀ BỘ NGHỊCH LƯ BA PHA I.. Biể diễn vcto không gian cho các đại lượng ba pha Động cơ không đồng bộ (ĐCKĐB) ba pha có ba (hay bội ố của ba) cộn dây tato bố

Διαβάστε περισσότερα

B. chiều dài dây treo C.vĩ độ địa lý

B. chiều dài dây treo C.vĩ độ địa lý ĐỀ THI THỬ LẦN 1 TRƯỜNG THPT CHUYÊN HẠ LONG QUẢNG NINH MÔN VẬT LÝ LỜI GIẢI: LẠI ĐẮC HỢP FACEBOOK: www.fb.com/laidachop Group: https://www.facebook.com/groups/dethivatly.moon/ Câu 1 [316487]: Đặt điện áp

Διαβάστε περισσότερα

Y i = β 1 + β 2 X 2i + + β k X ki + U i

Y i = β 1 + β 2 X 2i + + β k X ki + U i KHOA KINH TẾ VÀ KẾ TOÁN BỘ MÔN TOÁN KINH TẾ http://www.fea.qnu.edu.vn HOÀNG MẠNH HÙNG BÀI GIẢNG KINH TẾ LƯỢNG Y i = β 1 + β 2 X 2i + + β k X ki + U i Bình Định, tháng 9/2016 51 89/176-05 Mã số HP: 1140047

Διαβάστε περισσότερα

NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC THAN, ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN THAN CAO SƠN

NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC THAN, ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN THAN CAO SƠN i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT ======= ======= Nguyễn Thị Bích Phượng NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC THAN, ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN THAN

Διαβάστε περισσότερα

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ THI TUYỂN SINH LỚP 10 NĂM HỌC NGÀY THI : 19/06/2009 Thời gian làm bài: 120 phút (không kể thời gian giao đề)

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ THI TUYỂN SINH LỚP 10 NĂM HỌC NGÀY THI : 19/06/2009 Thời gian làm bài: 120 phút (không kể thời gian giao đề) SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ TI TUYỂN SIN LỚP NĂM ỌC 9- KÁN OÀ MÔN : TOÁN NGÀY TI : 9/6/9 ĐỀ CÍN TỨC Thời gian làm bài: phút (không kể thời gian giao đề) ài ( điểm) (Không dùng máy tính cầm tay) a Cho biết

Διαβάστε περισσότερα

TRANSISTOR MỐI NỐI LƯỠNG CỰC

TRANSISTOR MỐI NỐI LƯỠNG CỰC hương 4: Transistor mối nối lưỡng cực hương 4 TANSISTO MỐI NỐI LƯỠNG Ự Transistor mối nối lưỡng cực (JT) được phát minh vào năm 1948 bởi John ardeen và Walter rittain tại phòng thí nghiệm ell (ở Mỹ). Một

Διαβάστε περισσότερα

HỒI QUY TUYẾN TÍNH ĐƠN. GV : Đinh Công Khải FETP Môn: Các Phương Pháp Định Lượng

HỒI QUY TUYẾN TÍNH ĐƠN. GV : Đinh Công Khải FETP Môn: Các Phương Pháp Định Lượng 1 HỒI QUY TUYẾN TÍNH ĐƠN GV : Đnh Công Khả FETP Môn: Các Phương Pháp Định Lượng Knh tế lượng là gì? Knh tế lượng được quan tâm vớ vệc xác định các qu luật knh tế bằng thực nghệm (Thel, 1971) Knh tế lượng

Διαβάστε περισσότερα

CÁC CÔNG THỨC CỰC TRỊ ĐIỆN XOAY CHIỀU

CÁC CÔNG THỨC CỰC TRỊ ĐIỆN XOAY CHIỀU Tà lệ kha test đầ xân 4 Á ÔNG THỨ Ự TỊ ĐỆN XOAY HỀ GÁO VÊN : ĐẶNG VỆT HÙNG. Đạn mạch có thay đổ: * Kh thì Max max ; P Max còn Mn ư ý: và mắc lên tếp nha * Kh thì Max * Vớ = hặc = thì có cùng gá trị thì

Διαβάστε περισσότερα

Batigoal_mathscope.org ñược tính theo công thức

Batigoal_mathscope.org ñược tính theo công thức SỐ PHỨC TRONG CHỨNG MINH HÌNH HỌC PHẲNG Batigoal_mathscope.org Hoangquan9@gmail.com I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN. Khoảng cách giữa hai ñiểm Giả sử có số phức và biểu diễn hai ñiểm M và M trên mặt phẳng tọa

Διαβάστε περισσότερα

ĐỀ 83. https://www.facebook.com/nguyenkhachuongqv2

ĐỀ 83. https://www.facebook.com/nguyenkhachuongqv2 ĐỀ 8 https://www.facebook.com/nguyenkhachuongqv GV Nguyễn Khắc Hưởng - THPT Quế Võ số - https://huongphuong.wordpress.com SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN KỲ THI THỬ THPT QUỐC GIA 016 LẦN TRƯỜNG THPT MINH

Διαβάστε περισσότερα

BÀI TẬP LỚN MÔN THIẾT KẾ HỆ THỐNG CƠ KHÍ THEO ĐỘ TIN CẬY

BÀI TẬP LỚN MÔN THIẾT KẾ HỆ THỐNG CƠ KHÍ THEO ĐỘ TIN CẬY Trường Đại Học Bách Khoa TP HCM Khoa Cơ Khí BÀI TẬP LỚN MÔN THIẾT KẾ HỆ THỐNG CƠ KHÍ THEO ĐỘ TIN CẬY GVHD: PGS.TS NGUYỄN HỮU LỘC HVTH: TP HCM, 5/ 011 MS Trang 1 BÀI TẬP LỚN Thanh có tiết iện ngang hình

Διαβάστε περισσότερα

Dữ liệu bảng (Panel Data)

Dữ liệu bảng (Panel Data) 5/6/0 ữ lệu bảng (Panel ata) Đnh Công Khả Tháng 5/0 Nộ dung. Gớ thệu chung về dữ lệu bảng. Những lợ thế kh sử dụng dữ lệu bảng. Ước lượng mô hình hồ qu dữ lệu bảng Mô hình những ảnh hưởng cố định (FEM)

Διαβάστε περισσότερα

M c. E M b F I. M a. Chứng minh. M b M c. trong thứ hai của (O 1 ) và (O 2 ).

M c. E M b F I. M a. Chứng minh. M b M c. trong thứ hai của (O 1 ) và (O 2 ). ài tập ôn đội tuyển năm 015 Nguyễn Văn inh Số 5 ài 1. ho tam giác nội tiếp () có + =. Đường tròn () nội tiếp tam giác tiếp xúc với,, lần lượt tại,,. Gọi b, c lần lượt là trung điểm,. b c cắt tại. hứng

Διαβάστε περισσότερα

Tuyển chọn Đề và đáp án : Luyện thi thử Đại Học của các trường trong nước năm 2012.

Tuyển chọn Đề và đáp án : Luyện thi thử Đại Học của các trường trong nước năm 2012. wwwliscpgetl Tuyển chọn Đề và đáp án : Luyện thi thử Đại ọc củ các trường trong nước năm ôn: ÌN Ọ KÔNG GN (lisc cắt và dán) ÌN ÓP ài ho hình chóp có đáy là hình vuông cạnh, tm giác đều, tm giác vuông cân

Διαβάστε περισσότερα

CÁC ĐỊNH LÝ CƠ BẢN CỦA HÌNH HỌC PHẲNG

CÁC ĐỊNH LÝ CƠ BẢN CỦA HÌNH HỌC PHẲNG CÁC ĐỊNH LÝ CƠ BẢN CỦA HÌNH HỌC PHẲNG Nguyễn Tăng Vũ 1. Đường thẳng Euler. Bài toán 1. Trong một tam giác thì trọng tâm, trực tâm và tâm đường tròn ngoại tiếp cùng nằm trên một đường thẳng. (Đường thẳng

Διαβάστε περισσότερα

(Complexometric. Chương V. Reactions & Titrations) Ts. Phạm Trần Nguyên Nguyên

(Complexometric. Chương V. Reactions & Titrations) Ts. Phạm Trần Nguyên Nguyên Chương V PHẢN ỨNG TẠO T O PHỨC C & CHUẨN N ĐỘĐ (Complexometric Reactions & Titrations) Ts. Phạm Trần Nguyên Nguyên ptnnguyen@hcmus.edu.vn 1. Phức chất vàhằng số bền 2. Phương pháp chuẩn độ phức 3. Cân

Διαβάστε περισσότερα

(Instrumental Variables and Regression Discontinuity Design)

(Instrumental Variables and Regression Discontinuity Design) Mô hình Biến Công cụ và Hồi quy Gián đoạn (Instrumental Variables and Regression Discontinuity Design) Kinh tế lượng ứng dụng Lê Việt Phú Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngày 20 tháng 5 năm 2015

Διαβάστε περισσότερα

Biên soạn và giảng dạy : Giáo viên Nguyễn Minh Tuấn Tổ Hóa Trường THPT Chuyên Hùng Vương Phú Thọ

Biên soạn và giảng dạy : Giáo viên Nguyễn Minh Tuấn Tổ Hóa Trường THPT Chuyên Hùng Vương Phú Thọ B. PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VỀ AMIN I. Phản ứng thể hiện tính bazơ của amin Phương pháp giải Một số điều cần lưu ý về tính bazơ của amin : + Các amin đều phản ứng được với các dung dịch axit như HCl, HNO,

Διαβάστε περισσότερα

ĐỀ PEN-CUP SỐ 01. Môn: Vật Lí. Câu 1. Một chất điểm có khối lượng m, dao động điều hòa với biên độ A và tần số góc. Cơ năng dao động của chất điểm là.

ĐỀ PEN-CUP SỐ 01. Môn: Vật Lí. Câu 1. Một chất điểm có khối lượng m, dao động điều hòa với biên độ A và tần số góc. Cơ năng dao động của chất điểm là. Hocmai.n Học chủ động - Sống tích cực ĐỀ PEN-CUP SỐ 0 Môn: Vật Lí Câu. Một chất điểm có khối lượng m, dao động điều hòa ới biên độ A à tần số góc. Cơ năng dao động của chất điểm là. A. m A 4 B. m A C.

Διαβάστε περισσότερα

CÁC VẤN ĐỀ TIÊM CHỦNG VGSVB VÀ TIÊM NHẮC. BS CK II Nguyễn Viết Thịnh

CÁC VẤN ĐỀ TIÊM CHỦNG VGSVB VÀ TIÊM NHẮC. BS CK II Nguyễn Viết Thịnh CÁC VẤN ĐỀ TIÊM CHỦNG VGSVB VÀ TIÊM NHẮC BS CK II Nguyễn Viết Thịnh NỘI DUNG 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch khi tiêm ngừa VGB & xử trí 2. VGB có cần phải tiêm nhắc Các yếu tố ảnh hưởng đến

Διαβάστε περισσότερα

x = Cho U là một hệ gồm 2n vec-tơ trong không gian R n : (1.2)

x = Cho U là một hệ gồm 2n vec-tơ trong không gian R n : (1.2) 65 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 53, 2009 HỆ PHÂN HOẠCH HOÀN TOÀN KHÔNG GIAN R N Huỳnh Thế Phùng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế TÓM TẮT Một phân hoạch hoàn toàn của R n là một hệ gồm 2n vec-tơ

Διαβάστε περισσότερα

CHƯƠNG 8: NGUYÊN LÝ THỨ NHẤT CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC DẠNG 1: ĐỊNH LUẬT THỨ NHẤT

CHƯƠNG 8: NGUYÊN LÝ THỨ NHẤT CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC DẠNG 1: ĐỊNH LUẬT THỨ NHẤT 1 CHƯƠNG 8: NGUYÊN LÝ THỨ NHẤT CỦA NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC 1.1. Kiến thức cơ bản: DẠNG 1: ĐỊNH LUẬT THỨ NHẤT - Dạng này là dạng ứng dụng định luật thứ nhất nhiệt động lực học để giải các bài toán về nhiêt.

Διαβάστε περισσότερα

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ---------- ----------- Lê Đình Trƣờng MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ VỀ ĐƢỜNG THẲNG VÀ ĐƢỜNG TRÒN TRONG HÌNH HỌC PHẲNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội 1/2015

Διαβάστε περισσότερα

CHƯƠNG III NHIỆT HÓA HỌC 1. Các khái niệm cơ bản: a. Hệ: Là 1 phần của vũ trụ có giới hạn trong phạm vi đang khảo sát về phương diện hóa học.

CHƯƠNG III NHIỆT HÓA HỌC 1. Các khái niệm cơ bản: a. Hệ: Là 1 phần của vũ trụ có giới hạn trong phạm vi đang khảo sát về phương diện hóa học. CHƯƠNG III NHIỆT HÓA HỌC 1. Các khái niệm cơ bản: a. Hệ: Là 1 phần của vũ trụ có giới hạn trng phạm vi đang khả sát về phương diện hóa học. Phần còn lại của vũ trụ ba quanh hệ được gọi là môi trường ngài

Διαβάστε περισσότερα

Tinh chỉnh lược đồ và các dạng chuẩn hoá

Tinh chỉnh lược đồ và các dạng chuẩn hoá Tinh chỉnh lược đồ và các dạng chuẩn hoá Bởi: Ths. Phạm Hoàng Nhung Thiết kế cơ sở dữ liệu mức khái niệm cung cấp cho chúng ta một tập các lược đồ quan hệ và các ràng buộc toàn vẹn, đây có thể được coi

Διαβάστε περισσότερα

Ví dụ 2 Giải phương trình 3 " + = 0. Lời giải. Giải phương trình đặc trưng chúng ta nhận được

Ví dụ 2 Giải phương trình 3  + = 0. Lời giải. Giải phương trình đặc trưng chúng ta nhận được CHƯƠNG 6. PHƯƠNG TRÌNH VI PHÂN CẤP CAO Những ý tưởng cơ bản của phương trình vi phân đã được giải thích trong Chương 9, ở đó chúng ta đã tập trung vào phương trình cấp một. Trong chương này, chúng ta nghiên

Διαβάστε περισσότερα

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN CÁC BỘ BIẾN ĐỔI TĨNH

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN CÁC BỘ BIẾN ĐỔI TĨNH ĐẠI HỌC BÁCH KHOA ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM CHƯƠNG TRÌNH KS CLC VIỆT-PHÁP - - - - - - - - - - BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN CÁC BỘ BIẾN ĐỔI TĨNH ĐỀ TÀI: THIẾT KẾ BỘ BIẾN ĐỔI DC/DC DẠNG BOOST GVHD:PGS TS PHAN QUỐC

Διαβάστε περισσότερα

QUYẾT ĐỊNH QUYẾT ĐỊNH:

QUYẾT ĐỊNH QUYẾT ĐỊNH: QUYẾT ĐỊNH CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 49/2005/QĐ-BGTVT NGÀY 04 THÁNG 10 NĂM 2005 VỀ ÁP DỤNG QUY TẮC QUỐC TẾ PHÒNG NGỪA ĐÂM VA TÀU THUYỀN TRÊN BIỂN BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI Căn cứ Bộ

Διαβάστε περισσότερα

KINH TẾ HỌC VI MÔ. Kinh tế học là gì? Kinh tế học xuất hiện do nhu cầu dự báo, giải thích, và hướng dẫn các hoạt động kinh tế của con người.

KINH TẾ HỌC VI MÔ. Kinh tế học là gì? Kinh tế học xuất hiện do nhu cầu dự báo, giải thích, và hướng dẫn các hoạt động kinh tế của con người. KINH TẾ HỌ VI MÔ NỘI UNG MÔN KINH TẾ VI MÔ hần mở đầu: Những vấn đề chung về kinh tế học hần : Thị trường và giá cả hương :ung, cầu hàng hoá và giá cả thị trường hương : Độ co giãn của cung và cầu hương

Διαβάστε περισσότερα

Chương 5. Chẩn đoán hồi quy: Phương sai thay đổi

Chương 5. Chẩn đoán hồi quy: Phương sai thay đổi Chương 5 Chẩn đoán hồi quy: Phương sai thay đổi Domadar N. Gujarati (Econometrics by example, 2011). Người dịch và diễn giải: Phùng Thanh Bình, MB (1/11/2017) Một trong những vấn đề thường gặp trong dữ

Διαβάστε περισσότερα

ĐẠI CƯƠNG VỀ HÒA TAN. Trần Văn Thành

ĐẠI CƯƠNG VỀ HÒA TAN. Trần Văn Thành ĐẠI CƯƠNG VỀ HÒA TAN Trần Văn Thành 1 VAI TRÒ CỦA SỰ HÒA TAN Nghiên cứu phát triển Bảo quản Sinh khả dụng 2 CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN - CHẤT TAN - DUNG MÔI - DUNG DỊCH (THẬT/GIẢ) 3 NỒNG ĐỘ DUNG DỊCH 4 CÁC KHÁI

Διαβάστε περισσότερα

KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ REDD+ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN DÀNH CHO GIÁO VIÊN

KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ REDD+ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN DÀNH CHO GIÁO VIÊN KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ REDD+ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN DÀNH CHO GIÁO VIÊN IWGIA and AIPP 2011 Kiến thức cơ bản về REDD+ dựa vào cộng đồng Cẩm nang hướng dẫn tập huấn cho cộng đồng người dân tộc

Διαβάστε περισσότερα

PHƯƠNG PHÁP TỌA ĐỘ TRONG KHÔNG GIAN

PHƯƠNG PHÁP TỌA ĐỘ TRONG KHÔNG GIAN PHƯƠNG PHÁP TỌA ĐỘ TRONG KHÔNG GIAN 1- Độ dài đoạn thẳng Ax ( ; y; z ), Bx ( ; y ; z ) thì Nếu 1 1 1 1. Một Số Công Thức Cần Nhớ AB = ( x x ) + ( y y ) + ( z z ). 1 1 1 - Khoảng cách từ điểm đến mặt phẳng

Διαβάστε περισσότερα

x i x k = e = x j x k x i = x j (luật giản ước).

x i x k = e = x j x k x i = x j (luật giản ước). 1 Mục lục Chương 1. NHÓM.................................................. 2 Chương 2. NHÓM HỮU HẠN.................................... 10 Chương 3. NHÓM ABEL HỮU HẠN SINH....................... 14 2 CHƯƠNG

Διαβάστε περισσότερα

Dao Động Cơ. T = t. f = N t. f = 1 T. x = A cos(ωt + ϕ) L = 2A. Trong thời gian t giây vật thực hiện được N dao động toàn phần.

Dao Động Cơ. T = t. f = N t. f = 1 T. x = A cos(ωt + ϕ) L = 2A. Trong thời gian t giây vật thực hiện được N dao động toàn phần. GVLê Văn Dũng - NC: Nguyễn Khuyến Bình Dương Dao Động Cơ 0946045410 (Nhắn tin) DAO ĐỘNG ĐIỀU HÒA rong thời gian t giây vật thực hiện được N dao động toàn phần Chu kì dao động của vật là = t N rong thời

Διαβάστε περισσότερα

Lecture-11. Ch-6: Phân tích hệ thống liên tục dùng biếnđổi Laplace

Lecture-11. Ch-6: Phân tích hệ thống liên tục dùng biếnđổi Laplace Ch-6: Phân tích hệ thống liên tục dùng biếnđổi Laplace Lecture- 6.. Phân tích hệ thống LTI dùng biếnđổi Laplace 6.3. Sơđồ hối và thực hiện hệ thống 6.. Phân tích hệ thống LTI dùng biếnđổi Laplace 6...

Διαβάστε περισσότερα

CHƯƠNG I NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

CHƯƠNG I NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN Chương Những khái niệm cơ bản - CHƯƠNG I NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN DẠNG SÓNG CỦA TÍN HIỆU Hàm mũ Hàm nấc đơn vị Hàm dốc Hàm xung lực Hàm sin Hàm tuần hoàn PHẦN TỬ ĐIỆN Phần tử thụ động Phần tử tác động ĐIỆN

Διαβάστε περισσότερα

BÀI TẬP. 1-5: Dòng phân cực thuận trong chuyển tiếp PN là 1.5mA ở 27oC. Nếu Is = 2.4x10-14A và m = 1, tìm điện áp phân cực thuận.

BÀI TẬP. 1-5: Dòng phân cực thuận trong chuyển tiếp PN là 1.5mA ở 27oC. Nếu Is = 2.4x10-14A và m = 1, tìm điện áp phân cực thuận. BÀI TẬP CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT BÁN DẪN 1-1: Một thanh Si có mật độ electron trong bán dẫn thuần ni = 1.5x10 16 e/m 3. Cho độ linh động của electron và lỗ trống lần lượt là n = 0.14m 2 /vs và p = 0.05m 2 /vs.

Διαβάστε περισσότερα